Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

TRĂNG XƯA*




Vầng trăng ngày ấy trăng xưa,
tiết ngâu tháng bẩy, trăng mưa nhạt nhoà
Giờ thì trăng ấy, trăng xa
Trách mưa trót té làm ta ướt lòng
Thà rằng ướt cả cho xong
Nửa khô, nửa ướt, nửa trong, nửa ngoài
Cơn mưa đêm ấy, mưa dai
Mưa hờn, mưa dỗi, mưa hoài, mưa lâu
Mưa làm ướt cả đôi đầu,
mưa cho đổ quán, xiêu cầu mới yên
Giời ngâu, ai nỡ bỏ quên,
một câu thơ cũ ướt mèm như trăng
      
                                        Đang giữa tiết thu 14/9/2010
                                                                           Sửa lại : 30/9/2010
                                                             
                                                                         NGUYỄN ĐÌNH THÁI 
   
Rút trong tập thơ GƯƠNG THAN LẤP LÁNH – NXB Văn học 2011






TRĂNG NGÀY CŨ


 TRĂNG NGÀY CŨ

                                                 Có hai người dưới trăng,
                                              nhờ vầng trăng làm chứng



Có vầng trăng rất sáng ở trên cao
Tháng bẩy, sắp đến rằm, trăng đẹp
Trăng tròn đầy nhờ hai tuần trăng khuyết
Lòng khuyết rồi, chẳng biết có tròn không?

Chẳng hay người còn nhớ đến vầng trăng?
Đêm đêm ta gõ vào thang nhạc,
Nhặt trăng rơi  bọc vào câu hát,
cơn mưa rào cắt vụn vầng trăng

Câu hát ru giấu nỗi nhớ vào trong,
trốn đâu cũng mặt người soi tỏ
Ta giấu đêm vào giấc mơ vụn vỡ,
trái tim hồng trốn ở câu thơ

Ta hát người nghe về bao nỗi đam mê,
người trách ta viển vông như huyền thoại
Người yêu ta chỉ vì ta khờ dại
Người chê ta, hắt hủi cả vầng trăng

Chẳng còn chi ta gửi lại tháng năm,
chỉ mảnh trăng buông neo vào tháng bẩy
Người còn thương, xin nhớ về ngày ấy
Trăng khuyết rồi, lòng đừng khuyết theo trăng
   
                                                              12/7/2003                           

                                                    NGUYẾN ĐÌNH THÁI




Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

MƯỜI BA NĂM VÀ NĂM NGHÌN*


                                                                Kính tặng chị Vũ Thị Minh Nghĩa
                            
                             Người đàn bà nhỏ thó sạm đen
                             lầm lũi bước
                             dưới những tán rừng còn nguyên dấu vết
                             đi-ô-xin
                      
                             Người nữ cựu chiến binh gầy guộc sạm đen
                             đi lang thang tìm đồng đội
                             Họ ngủ quên, chưa hay tin chiến tranh kết thúc
                             Chị vỗ vào giấc thu của các anh báo thức

                             Người nữ cựu chiến binh nhỏ thó lặng im
                             lầm lũi bước
                             Ba-lô bạc màu nặng trên vai những lá cờ Tổ Quốc
                             Chị không đơn côi

                             Chị đang hành quân giữa Quân đoàn đấy chứ
                             Xung quang chị phập phồng hơi thở
                             đồng đội
                             Xung quanh chị rì rầm tiếng nói
                       
                             chỉ mình chị nghe thấy thôi
                             Người nữ cựu chiến binh chẳng đơn côi
                             Có rất nhiều đồng đội
                             Hơn năm nghìn đồng chí

                             Mười ba năm lặng lẽ
                             chị cõng các anh về

                                                                          Sắp tới Lễ Vu Lan
                                                                           Qua 27/7 04 ngày
                                                                                31/7/2011
                                                                            (01/7 Tân Mão)

                                                                        NGUYỄN ĐÌNH THÁI

*Cảm xúc khi đọc loạt bài viết: “Chị Năm Nghĩa và hành trình 13 năm lầm lụi tìm hơn 5000 hài cốt Liệt sỹ” của Nhà báo Hoàng Anh Sướng đăng trên Tuần báo Tuổi trẻ và Đời sống, ấn phẩm của báo Tuổi trẻ Thủ Đô. Chị Vũ Thị Minh Nghĩa nguyên là chuẩn úy quân y, sinh năm 1953 quê ở xã  Thái Sơn, huyện Thái Thụy, Thái Bình.
Bài thơ in trong tập thơ KÝ ỨC NGƯỜI LÍNH - NXB Hội Nhà văn 2013.
                                             
 



ĐỌC "NỖI NIỀM THỊ PHƯƠNG NHỚ CHA"*



                                                        Một nén hương trầm dâng Cha

Chắc là thi phận ở đời,
đọc thơ con lại nhớ Người ngày xưa
Ngày xuân mưa bụi giăng mờ
Chiếu chèo phên liếp che mưa sân đình
Táo chua rụng, chẳng ai rình
Đèn măng-xông sáng, trống thình thình vang
Đêm chèo mở giữa hội làng
Triều đình, vua, tướng. Có quan. Có hề
Tích chèo đánh thức thôn quê
Ối chao! Thâm thật. Lão hề “nỡm” Vua
Phấn son loang vết dưới mưa
Bàn chân Nghệ sỹ cáu chua dính đầy
Thế mà say ngất, say ngây
Tiếng cười nghiêng ngả giữa ngày hội xuân
Xem Cha diễn tích muôn lần
Chan chan nước mắt, thương thầm Thị Phương
Oán đời còn lắm nhiễu nhương
Sao còn oan trái, nhiều phường quan tham
Nay con đi giữa thế gian
Đọc thơ, con thắp nén nhang dâng Người
Cha ơi, ngậm một nét cười
Con đọc Cha nhé: “… Có người… Trương Viên…”

                                                                  15h43 15/02/2012

                                                                   NGUYỄN ĐÌNH THÁI

Thị Phương: Nhân vật nữ trong vở chèo cổ Trương Viên
                     (Nhân đọc bài thơ “Nỗi niềm Thị Phương” trên lucbat.com ngày 15/2/2012 cảm tác)




            

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

VIẾT Ở NGÃ BA ĐỒNG LỘC*




Mười nữ chiến sĩ TNXP A4, B5, C552, Tổng đội TNXP 55 đang san lấp hố bom. Ảnh do Hoàng Văn Sắc, phóng viên TTXVN chụp 6/1968. Gần 20 ngày sau, 17 giờ 24/7/1968 các chị trở về lòng đất Mẹ. Đây là bức ảnh cuối cùng của tiểu đội. Bức ảnh đẹp về bố cục, đẹp về độ tương phản đen trắng, vừa cho ta thấy người thực, vừa cho ta thấy hai lần bóng các chị in hình dưới nước đáy hố bom.

Mười nén hương thơm viếng Các Chị tôi   

Những Người không sợ chết lại hóa thành bất tử
Những Người không sợ hy sinh đã viết nên Lịch sử
Trong số đó,
họ đang thanh thản ở Ngã Ba Đồng Lộc

Các Chị tôi đã hóa  thân trong khoảnh khắc
Hình phễu hố bom như chiếc nón khổng lồ đặt ngược
ôm trong lòng mình những người con của Nước
Không phải là chết mà Họ lại trở về Đất Mẹ

Mười Chị tôi ngày trở về còn rất trẻ
Tóc rất xanh và khuôn mặt rất xinh
Khát khao một ước muốn rất thường tình
Cả Tiểu đội gội đầu chung nồi bồ kết

Họ đã chết không phải là không biết sợ chết
Chỉ một lần sinh ra, ai chẳng ham sống cho  mình
Mười Con Người đều mong muồn yên bình
Lấy chồng, sinh con, sống vui bên cha mẹ

Điều giản đơn ấy tưởng chừng như có thể
Tổ Quốc lâm nguy, điều đơn giản ấy cũng lâm nguy
Khi Đất Nước cần, Họ tự biết phải làm chi
Dám chết để Non Sông không phải chết

Họ dám hy sinh cho giang sơn bất diệt
Nhưng chẳng kịp nghĩ nhiều về những việc xa xôi
San hố, lấp đường, việc đếm bom rơi
Đáng mấy việc mà kể công với Nước

Tôi đã thấy trên miệng hố bom quen thuộc
Mười Chị tôi đang thong thả gội đầu

                                              Ngã Ba Đồng Lộc 29/7/2007
                                                            Hạ Long 07/7/2011

                                                  NGUYỄN ĐÌNH THÁI

*Rút trong tập thơ LỬA THAN, NXB Hội Nhà văn 2012
                           

       

                                  A4 chiều nay ra quân lần cuối
                                  Mười bẩy giờ hai bốn tháng bẩy, năm sáu tám, Mậu Thân             
                                  Phút lâm chung, cả tiểu đội vẫn quây quần
                                  Chỉ duy nhất hố bom này không bao giờ san lấp nổi.

          (Trích bài thơ ĐỒNG LỘC TRƯA THÁNG BẨY - Nguyễn Đình Thái)             





                       
                  
                                                                        





TRƯỚC ĐÀI TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ Ở THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ




TRƯỚC ĐÀI TƯỞNG NIỆM LIỆT SỸ
       Ở THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

Tôi đã khóc, tay run lên khi giơ cao máy ảnh
Ghi hình đôi dép cao su, chiếc ba-lô, khẩu súng AK,
chiếc mũ thân quen, sương gió đã phôi pha.
Im lặng, giản đơn như các “chứng nhân” trong hòm kính.

Đó là tất cả gia tài-hành trang người lính
Chứng tích thiêng liêng trong cuộc chiến tranh,
khi cái chết, sự sống  như sợi chỉ mỏng manh,
khi anh hùng và cái đớn hèn đối mặt nhau trong gang tấc

Thảm cỏ xanh là “chứng nhân" có sức tỏa lan nhiều nhất
Bởi màu xanh kia được nuôi bằng triệu triệu giọt máu hồng
Ba cây số vuông còn nâng niu, ôm ấp trong lòng*
Hàng nghìn di hài của các anh quyện hòa trong bùn đất

ở cổ thành  bấy giờ không ai  được phép so đo được mất
Bom đạn quân thù thì muốn nghiền nát cả hành tinh
Nhưng chủ nghĩa anh hùng, lòng yêu nước, đức hy sinh
Các Anh khiến cả loài người phải nghiêng mình kính nể

Nhưng đồng đội tôi thì không kịp nghĩ nhiều đến thế
Chẳng cần loài người có biết đến mình không
Chẳng cần và cũng chẳng kịp để lại gì cho núi sông
Xương về đất, chỉ còn đây, chiếc ba-lô và cây súng thép

Còn lại những gì hôm nay chúng ta được biết
Đài tưởng niệm khiêm nhường và hòm kính quân trang
Lư hương trầm đang nghi ngút khói nhang
Nấm mồ chung phẳng phiu xanh tươi màu cỏ dại.

Những gì các anh gửi về sau cho nhiều niên đại
Chẳng còn nhiều, nhưng cũng chẳng ít đâu
Biển, hải đảo và trời xanh, mây trắng ở trên đầu
Ba mươi ba vạn cây số vuông hình hài Tổ Quốc**

Tôi chợt hiểu vì sao mình đã khóc
Tôi cũng là đồng đội của các anh
Họ đã đi qua suốt dọc cuộc chiến tranh
Mình chậm bước nhưng kịp là đồng chí

Đất nước mình có muôn ngàn nghĩa trang liệt sỹ
Xương cốt các anh được ôm ấp giữa quê hương,

giữa làng thôn, giữa đồng lúa yêu thương
Nhưng ở cổ thành này, chẳng ai còn nguyên vẹn.

Tôi gắng nghiêm, nghiêng tay chào theo điều lệnh
Chợt nhòa đi, như mê sảng giữa nắng trưa
Thành cổ ngời lên thắm đỏ, rực sắc cờ
Đài tưởng niệm cháy bùng hồn Tổ Quốc

                                           Thành cổ Quảng Trị 28/7/2007
                                                     Hạ Long 06/7/2011

                                                 NGUYỄN ĐÌNH THÁI
Bài in trong tập thơ LỬA THAN – NXB Hội Nhà văn 2012

Ghi chú: * Thành cổ Quảng Trị từ thời Nguyễn có diện tích
khoảng 3000m2 (3km2)
             ** Diện tích nước ta hiện nay khoảng 330.000 km2
                          

                         

                          

                         
                          
                          
                           

                        
                       

                       

                       
                       
                       
                       
                       
                                

                               
                                  


                                               

CON ĐƯỜNG ĐI HỌC



                              Cho cả ba con
Con đường con đi học,
dịu dàng lá thu bay
Sương đêm còn mát đất
Đang vào mùa heo may

Con đường con đi học,
bình minh đang xoè tay
Gió lao xao vòm lá
Ngang trời chim én bay

Con đường con đi học,
tấp nập người và xe
Thắm tươi khăn quàng đỏ,
đông vui bao bạn bè

Dù có đi thật xa,
vẫn nhớ thời đi học
Trải dài trong kí ức,
con đường xưa con đi

                    Đêm 3/11/1994

              NGUYỄN ĐÌNH THÁI















MẸ TÔI



 


Mẹ vợ đã ngoại tám mươi,
mẹ tôi đang hưởng lộc giời bẩy lăm
Chẳng gần để được viếng thăm,
đề dâng tấm bánh, để nâng nướcmời
tìm tôi cái thưở chín, mười
chang chang trưa nắng mẹ tôi ra đồng
Người ta hóng mát bờ sông,
Mẹ tôi lội đồng tìm cá, móc cua
Người ta tìm chỗ trú mưa,
Cha xuống ruộng bừa, mẹ cắt cỏ trâu
Người ta mê mải làm giàu
Mẹ tôi thui thủi hái dâu chăn tằm
Làm ruộng thì ăn cơm nằm
Mẹ tôi nuôi tằm, ăn đứng, ngồi nong
Cả đời sấp ngửa, long đong,
Tối lo bữa sớm. Sáng mong bữa chiều
Xế tà bóng mẹ xiêu xiêu.
bước cao, bước thấp ráng chiều rưng rưng
Xót nhìn dáng mẹ còng lưng,
cầu Giời, lạy Phật mẹ đừng còng thêm
Cầu mong mưa thuận, gió êm,
Để tôi thi thoảng về bên mẹ già
Lại tìm nũng nịu lên ba
Giụi đầu lòng mẹ, vỡ òa trẻ thơ


                                                                                                      1/10/2010
                                                                                Ngày Tri ân những Người Cao tuổi

                                                                       NGUYỄN ĐÌNH THÁI

*Bài in trong tập thơ GƯƠNG THAN LẤP LÁNH – NXB Văn học 2011


Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

NGHE MẸ GỌI ĐIỆN SÁNG NAY*



Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

HOÀI NIỆM (Thơ văn xuôi)

 

Hình ảnh: Bye mem,từ h ad đi tu đâyy :)))) Thi vs cử tới r =))) 
 <3 Trang Yumii <3

  Thương lắm về một miền quê, nơi ta chưa một lần đặt chân tới. Bên triền sông, lũ cò lặn lội. Ngút mắt ngàn dâu. Bãi đỏ mịn phù sa.
         Vườn nhà ai vải đã đơm hoa, vồng mâm xôi vàng nếp cái. Bờ sông xa rực vàng hoa cải. Nón trắng ai về mê mải cuối đường thôn.
         Sau lũy tre, tiếng ru thật buồn. Người mẹ trẻ trinh nguyên thì con gái
         Em sang sông, tôi thẫn thờ đứng lại. Lỡ một chuyến đò, lỡ cả thời trai. Nhìn mây bay, ta thầm gọi tên ai, nhưng chẳng thể giơ tay với được. Day dứt mãi một niềm hoài ước: Giá mây đừng bay, em đừng sang sông.
         Xưa nàng thách ta tìm được lá diêu bông. Quá nửa thời trai ta mới tìm thấy lá. Nhưng em hỡi, ta lại về muộn quá.
         Em làm khổ ta, ơi hỡi lá diêu bông!

                                                                                      Hạ Long 02h20 ~ 06h20 29/8/2002

                                                                                                  NGUYỄN ĐÌNH THÁI

Hình ảnh

BẾN ĐỢI*

Ta sắp sửa chia tay tháng 3, tháng rét nàng Bân để dắt tay đi cùng tháng 4 rực rỡ, chói chang nắng hè. Nhưng ai đi cứ đi, ai chờ cứ chờ, ai đợi vẫn đợi. Có những chờ đợi khắc khoải một đời chưa xong cái khắc khoải của một thời.

Ta hẹn người bên bến sông xưa
Nắng hanh, hoa cải vàng ngợp mắt
Vồng ngô non trổ cờ phơ phất
Lũ cò về ngơ ngác triền sông.
                                                                           
Ta chờ người.
                    Ra ngóng.
                                  Vào trông
Nắng nhạt.
               Hoa cải vàng héo nụ
Bắp khô trắng.
                     Bãi trơ màu đất cũ
Cò bay trốn rét.
                       Chỉ còn ta                    
Ta đợi người đến tiết tháng ba
Ta rét lộc. Chờ cây tàn hoa cũ
Ta rét đài. Đợi búp dần kết nụ
Chẳng còn chi. Chỉ lại mình ta.

Ta hẹn người. Tận bến sông xa
Người hờ hững. Ta về ghềnh cũ
Ta hiểu người. Người biết ta là đủ
Một mình. Làm cuộc hẹn bến xưa

                                                             Hạ Long 17/9/2010
* Bài đã in trong các tập thơ:
                                             -  LỬA THAN - NXB Hội Nhà văn 2012
                                             - TRUYỀN ĐĂNG - NXB Lao động 2012
(Có sửa chữa so với hai bản đã in trong hai tập thơ trên)










Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

BÀI THƠ KHÔNG ĐẶT TÊN



Hình ảnh

       
                      Tặng Vân Hoài, Truc Le
                        HƯỜNG PHẠM THU

Ta nhặt ánh trăng vàng vỡ vụn
Cất vào đêm gom chút nắng của trời
Ta dành phơi khô héo cánh hoa rơi
Tháng rét ủ đài cho cây lộc nẩy

Ta rót  vào thơ giọt mưa rào tháng bẩy
Cái rét Nàng Bân se sắt của tháng ba
Tháng tư đầu hè, tay hứng giọt sương sa
Lắng tiếng sấm ì ầm từ thẳm sâu dội lại
                                                                               
Ta nhặt khôn cho nửa đời đỡ dại
Trút bớt ngu ngơ cho bảnh mặt với trời
Chừa bớt sân si cho bể khổ dần vơi
Tĩnh tâm lại vô thường trong nhân thế

Trăng biết già cho một vầng trăng trẻ
Hoa biết khô cho lộc nõn, đài tơ
Nhờ mấy giọt sương, tháng bẩy trắng trời mưa
Ta gom góp i tờ chắp vần cho mùa thơ viên mãn

                                           Hạ Long 16h11 15/4/2013
                                               
                                             NGUYỄN ĐÌNH THÁI



SÔNG VÀ BẾN*

Em vẫn là mãi mãi của anh
Dù anh phía mưa nguồn, em nơi này chớp biển
Anh là sông. Em là bến
Bến ôm sông. Sông ve vuốt bến em.

                                                                     Hai đứa ngồi ngắm một ngôi sao đêm
                                                                     Anh bảo: "Là Sao Mai đó"
                                                                     Em thì thầm vào tai anh thật nhỏ:
                                                                     "Đời Sao Mai chỉ vẻn vẹn một đêm".

Anh cười. Rồi ôm lấy vai em:
"Anh đùa đấy. Chưa gì đã dỗi
Hay em thích là nàng Sao Chổi,
quét anh đi. Như lá rụng mùa thu.

                                                                    Đến bây giờ anh lại ra đi
                                                                    Ở nơi ấy có bến nào không đấy
                                                                    Sông ve vuốt. Hay là sông cuộn chảy?
                                                                    Bến ngày xưa còn níu nổi sông về?

Bến dầm chân đợi mãi sông xưa,
khắc khoải chờ sông về bến cũ
Phía đầu nguồn đang vào mùa mưa lũ
Anh hãy về nương lại bến bờ em!

                                                                                           21h 24/9/2010

                                                                                  NGUYỄN ĐÌNH THÁI

*Rút trong tập thơ LỬA THAN - NXB Hội Nhà văn 2012

                                                                    

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

BÀI THƠ VIẾT TỪ XÚC CẢM KHI ĐỌC MỘT BÀI BÁO


      Những ngày này, Nhân dân ta, Quân đội ta đang kỷ niệm 38 năm Ngày Chiến thắng 30/4. Nhưng giang sơn chúng ta chưa trọn vẹn về với nhân dân ta. Máu còn đổ và sẽ còn đổ.
      Tôi xin post trọn vẹn bài thơ này để mọi người chia sẻ với tấm lòng của một người lính, một người yêu nước Việt trong hàng chục triệu người Việt yêu nước mình
             
                                BÀI THƠ  VIẾT TỪ XÚC CẢM
                                  KHI ĐỌC MỘT BÀI BÁO *

                      “Thành Cổ Loa” (1) trên quần đảo Trường Sa – Việt Nam
                      Đá móng được chở ra trên những con tàu HQ Quân chủng (2)
                      Nền móng ấy sẽ muôn vạn năm, đời đời bền vững
                      Cương vực An Dương Vương được rào chắn giữa biển xa.

                      Mang đến Trường Sa một nắm đất phương Nam (3)
                      từ đôi tay của nhà giáo tương lai, sinh viên Sư phạm (4)
                      Nắm đất ấy còn nồng khói bom, khét mùi thuốc đạn,
                      hằn vết xích xe tăng T năm tư (T54)
                                                                                         còn lưu lại từ một chín bẩy lăm (5).

                      Người lượm ve chai Nguyễn Thị Quý
                                                                                                         phường An Phú Đông (6)
                      Mẩu tin nhỏ từ một mảnh báo con con, tờ Tuổi Trẻ (7)
                      đã lay động con tim giữa trưa hè trong ngõ nhỏ (8)
                      Chị hiến cho Trường Sa chỉ có nửa triệu đồng,
                                                            nhưng tình yêu thì phải được sánh với kim cương (9).

                      Cái hành vi ấy bình thường 
                                                                                             nhưng nghĩa cử ấy lại phi thường
                      Bởi sinh kế  nuôi con bằng việc bươn chải lượm nhặt ve chai,
                                                          nhưng chị bớt bữa, góp năm trăm ngàn
                                                                                 cho đủ tiền nghìn triệu thứ mười hai (10)
                      Thêm cả mười bẩy tỷ đồng xây Loa Thành nơi biển cả. (11)

                      Hơn tám chục triệu người Việt Nam là bấy nhiêu viên đá (12)
                      Có phên dậu vĩnh cửu nào được xây bằng
                                                                                             tình yêu Tổ Quốc thế này chăng?
                      Muôn vạn đá thiêng từ trùng điệp dãy Trường Sơn,
                      từ đỉnh Ba Vì, Thánh Tản Viên gửi ra xây biên cương trên biển.

                      Xã tắc lung lay, sơn hà nguy biến
                      Liệu còn ngõ phố nào cho chị Quý lượm ve chai?
                      Chân lý này đơn giản như phép tính một cộng với một bằng hai
                      Không cần học vị, học hàm cao siêu ai mà chẳng biết.

                      Chị Quý ơi, sao phải giấu đi những dòng nước mắt? (13)
                      Hãy khóc to lên, đây là đất, là quần đảo san hô, là biển của chúng mình
                      Đất Nước còn có thể sờ thấy cụ thể cả dáng hình
                      khi bàn tay quen lượm ve chai run run
                                                                                         đặt lên dòng Quốc hiệu thiêng liêng
                                                                                                                     trên cột mốc. (14)

                      Thì đây, giữa biển Đông có một phần thịt da con dân Tổ Quốc
                      của linh hồn những chiến sỹ trên đảo nổi, đảo chìm giữa khơi xa
                      Tổ Quốc chính là lá Quốc kỳ anh lấy máu mình nhuộm thắm
                                                                                                                   trên bãi đá Gạc Ma
                       Giặc có thể giết anh nhưng phần giang sơn này không thể mất. (15)

                      Tổ Quốc là Mốc Chủ Quyền do tổ tiên và chúng ta
                                                                                     đang dùng đến cả máu xương xây đắp
                      Một trăm mười một kinh độ Đông, năm lăm phút,
                                                                                                                     năm lăm giây (16)
                      Vĩ độ tám phía Bắc, ba mươi tám phút ba mươi (17)
                      Sừng sững giữa Biển Đông trên quần đảo san hô Bão Tố. (18)

                      Tổ Quốc rực lên trong bốn bức tranh và sắc cờ bằng sứ
                      Đồ gốm Bát Tràng cưỡi sóng dữ tới Trường Sa
                      Phù sa đỏ sông Hồng do chính tay vua Lý Thái Tổ gửi ra
                      sau một ngàn không trăm lẻ hai năm. Tượng hình Quốc kỳ
                                                  trong ba trăm mười mét vuông 
                                                                                                     nơi biên cương xa nhất. (19)

                      Lẽ tạo hóa thường tình trong thuyết luân hồi: sinh sôi, cỗi già,
                                                                     trong các cặp phạm trù: thắng thua, được mất…
                      Nhưng non sông thì không thể mặc cả, không thể di dời
                      Phương Bắc, phương Nam riêng rẽ một cõi trời
                      Cương vực nào, non sông nào có chủ nhân
                                                                                                    của non sông, cương vực ấy.

                      Một ngàn năm (20) 
                                       cho đến mười bốn tháng ba
                                                                    một chín tám tám, (21)
                                                                                                      máu chúng ta vẫn chảy (22)
                      Sáu tư linh hồn còn canh giữ các đảo đá Len Đao, Cô Lin, Gạc Ma
                      Tàu HQ505 và các anh neo cạn trên đảo làm cột mốc sống
                                                                            để khẳng định chủ quyền giữa trùng xa (23)
                      Một doi đá ngầm nhỏ nhoi vài mét vuông thôi cũng cần phải có danh xưng,
                                            cũng là đất đai. Dưới đất đai và sóng đại dương còn có cả
                                                                                         thịt da, máu xương người Việt. (24)

                      Vài chấm nhỏ trên bản đồ, nhấp nhô nơi Biển Đông,
                                                           thế giới yêu chuộng yên ổn, hòa bình ai mà chẳng biết
                      Không phải ao nhà, nơi tiếm xưng cái gọi là
                                                                                                      Nam Hải của lân quốc đâu!
                      Dải đất trên bán đảo Đông Dương, có biển ở phía Đông
                                                                                        và khoảng không nước Việt trên đầu
                      Chỉ duy nhất một cách gọi:
                                          đấy là thềm hiên nhà dầm nước do Thục Phán
                                                                An Dương Vương đặt móng đã hơn bốn ngàn năm.

                      Bốn trăm phi công, viên chức phía Nam của Công ty trực thăng
                      Chỉ sau gần sáu mươi phút đã quyên gửi Trường Sa
                                                                                                    năm mươi triệu đồng mua đá
                      Mỗi một người nhắn một tin, để thành
                                                                                         một nghìn không trăm bốn tám (25)
                      lời yêu thương bay qua cánh sóng tới đảo xa.

                      Tất cả nhân dân mình đều hướng tới Trường Sa
                      Phụ nữ xô-viết Hưng Nguyên, hai mươi ba xã, góp
                                                                                      hai chục triệu đồng cho đợt một, (26)
                      dẫu cuộc sống thường ngày đâu cứ đợi khi nào dư dật
                      Thì đấy thôi, với tấm lòng thảo thơm, các chị đã 
                                                                                         xứng là những tỷ phú đất Nghệ An.

                      Những người trẻ của Tổng công trình giao thông
                                                                                                          Cienco năm (CIENCO5)
                      Một ngàn năm trăm huy hiệu Đoàn cùng
                                                                                                        ánh lên trên ngực trái (27)
                      Một nghìn triệu đồng của ba mươi ba chi đoàn (28)
                                                                                                                                đâu có phải
                      số đếm của đồng tiền
                                                            mà chính là hoa thơm
                                                                                                                   để kết trái tình yêu.

                      Đất nước ta vừa qua khỏi hai cuộc trường chinh,
                                                                                           nhân dân ta chưa khỏi thoát nghèo
                      Các cháu ở Si Ma Cai, Xín Mần, Mù Căng Chải chưa đủ cơm,
                                                                                                      cơm chưa có thịt để ăn (29)
                      Nhưng cấp thiết hơn, Tổ Quốc cần có chủ quyền,
                                                                                                    các cháu cần chỗ nương thân
                      Đất nước yên bình, các cháu ơi, rồi nhiều cơm, rồi bữa ăn dần có thịt.

                      Kia, cô gái Củ Chi mang trong mình bao nhiêu khuyết tật (30)
                      Sáu lăm centi, chỉ số trọng lượng ba mươi cân
                      Nhưng tình yêu nước của cô gấp bội chiều cao,
                                                                                                                    nặng mấy chục lần
                                                                                                                                                                                    
                      Tôi đã khóc thương người con gái xương thủy tinh,
                                                                                          trong người còn đioxin độc tố. (31)
                      “Xây lên nào, những yêu thương không vụn vỡ
                      Trường Sa ơi thắm mãi một tình yêu” (32)
                      Hai trăm ngàn đồng, có nhiều nhặn gì đâu (33)
                      Mỗi một học sinh góp năm trăm đồng,
                      nhưng tôi nghĩ rằng chỉ bằng ấy tiền thôi, vẫn
                                                                 có thể xây được móng vàng ròng
                                                                                                       cho “Loa Thành trên biển”

                      Cô gái tật nguyền Củ Chi ơi, tôi hiểu
                      Em xây yêu thương không vụn vỡ ở “Loa Thành”
                      Thân thể em lại dễ vỡ vụn mong manh,
                                                                                          cốt xương em trong trắng thủy tinh
                      Vịn vào Tổ Quốc, em bỗng vụt phi thường,
                                                                                     mạnh mẽ như Thiên Vương Phù Đổng

                      Trường Sa ơi, ngày những người lính Hải quân
                                                                                                     và cả dân tộc này đang sống
                      Đáng sống nhiều hơn vì ta còn có đất, có rừng, sông,
                                                                                                        biển đảo của chúng ta (34)
                      Một ngàn không trăm tám mươi năm, ngoảnh lại vẫn chưa xa (35)
                      Nền độc lập này chỉ có ta, do ta, đâu phải nhờ ai gìn giữ.

                      Nền độc lập của giang sơn này do dân giành lấy.
                                                                                 Dân ắt phải, mãi mãi phải là ông chủ!
                      Tư lệnh Giáp Văn Cương ứa lệ nhìn anh lính biển Nguyễn Văn Tròn: (36)
                      “Đất đai hương hỏa ông bà,  dù giá nào phải giữ lấy nhé, con
                      Mất đảo là mất biển. Mất biển thì chúng ta mất nước…”.

                      Người lính thô ráp quê biển Nguyễn Văn Tròn
                                                                                                                 rưng rưng nước mắt:
                      “Bố hãy tin, gian khổ mấy, chúng con vẫn vững vàng
                      Sức trẻ này xây bờ cõi giữa đại dương
                      Thuyền Chài buông neo chắc, Tổ Quốc ta không bao giờ trôi dạt!” (37)

                      Ba mét vuông đá  ở đảo Thuyền Chài chỉ có rẻo san hô và cát
                      Người lính yêu nước kia hồn nhiên sáng kiến: “giấu” đảo nhỏ đi
                      Chỉ cần cái xẻng con và một tiếng rưỡi đồng hồ
                      Nước che đất, Đất Nước không bị kẻ thù nào nhòm ngó. (38)

                       Mỗi một tấm lòng, mỗi một hành vi
                                                                                                                hay gửi vào trong gió                                                                                                                                                                                                                                                                                      
                      một nghìn tin nhắn. Năm nghìn sinh viên Bà Rịa – Vũng Tàu         
                                                                                   dù bữa cơm còn nghèo, ít thịt nhiều rau
                      nhưng vẫn góp hàng chục triệu đồng gửi Trường Sa
                                                                để các anh thêm cọng rau tươi cho bữa ăn đạm bạc.

                      Hãy gửi nhiều tấm lót vai cho những chàng Hải quân đang khuân vác
                      Vai áo rách bươm sau những bận
                                                                                                             vác đá dựng công trình
                      Hai trăm viên mỗi lần, vai rộp phồng,        
                                                                                                   hỡi người lính công binh (39)
                      Người ở đất liền cũng phồng rộp bao nhiêu là thương nhớ.

                      Sa Vĩ ngoài này cũng là nơi địa đầu sóng gió (40)
                      Tôi thức đêm nay nghe gió thổi tận Pò Hèn (41)
                      Tiếng còi tàu lẫn tiếng quân reo “Sát Thát” ở biển Vân Đồn
                      Có phải chiến thuyền “Soái” của Nhân Huệ Vương Khánh Dư
                                                                                                  đang neo ngoài Cửa Lục. (42)

                      Tiếng lá rừng hồi Thán Phún, rừng quế Hoành Mô rì rào,
                                                                                    thấp thoáng thuyền câu Vũng Đục (43)
                      Tiếng chuông thiêng non Yên Tử vẫn thoảng gió vọng về
                      Đỉnh Truyền Đăng nhấp nháy sao khuya (44)
                      Tôi miên man đồ rằng: khói lửa từ ngôi sao ấy đang báo tin chăng
                                                          nơi biên ải An Bang lũ ngoại xâm đang quấy phá? (45)

                      Đất trời và biển Rồng Đậu đêm nay yên tĩnh quá
                      Hãy lắng nghe Hạ Long đang rì rầm kể lại chuyện cũ bẩy trăm năm (46)
                      Người lính già đầu bạc thuở Nguyên Phong (47)
                      Dưới ánh trăng thu đang mài gươm bên vách núi.

                      Chẳng biết sau hai trăm hai mươi ba năm, kẻ thù còn nhớ lối (48)
                      Kể từ sau Kỷ Dậu. Gián Khẩu, Ngọc Hồi, Thường Tín, Đống Đa? (49)
                      Chúng còn nhớ chăng những gò đống
                                                                                       còn ai oán, vất vưởng những hồn ma
                      Tổ tiên ta đã nhân từ nhón tay lập nơi ngụ hương cho ác hồn dị tộc. (50)

                      Biển Đông, Trường Sa đang mùa gió lốc
                      Các em hãy tựa lưng vào vững chãi gốc phong ba
                      Phía tây các em, nơi ấy có Nam Quốc sơn hà
                      Hơn một trăm sáu chục triệu cánh tay sẽ đan kết
                                                                 thành tấm khiên thép khổng lồ
                                                                                                             chắn che cho quần đảo

                      Đất liền, hải đảo, biên ải. Suốt một dải
                                                                      cương thổ Việt Nam đang gồng lưng chống bão
                      Những động thái này thành kỹ nghệ đã bốn nghìn năm
                      Nghệ thuật này đã cụ thể hóa thành văn,
                      Được tổng kết trong “Đại cáo Bình Ngô”, “Hịch tướng sĩ”,
                                                                                                   “Tuyên ngôn độc lập”… (51)

                      Người dạy sử thế kỷ hai mươi, Anh Văn, Tướng Văn – Nguyên Giáp (52)
                      Đã viết nối vào chỉ dụ của Nguyễn Huệ - Quang Trung (53)
                      Viết thêm chương cho Hịch văn của Quốc Tuấn Hưng Đạo Vương
                      Vỗ lan xa nhịp sóng Trương Hán Siêu “Bạch Đằng Giang phú”.        

                      Những áng thiên cổ hùng văn vẫn muôn năm bất hủ
                      Nghiên mực viết thơ “Thần” còn đầy ắp đến hôm nay (54)
                      Khúc Như Nguyệt xưa, chứng tích vẫn còn đây (55)
                      “Tiệt nhiên định phận” cho “nước Nam, vua Nam ở”. (56)

                      Kẻ thù đã quên ư? Hãy nhắc cho chúng nhớ
                      Nhìn thấy không, khúc đường hiểm ải Chi Lăng?
                      Nhìn thấy không, bại tướng Liễu Thăng? (57)
                      Hồn phách lạc xiêu, chỉ còn kia, hình đá cụt đầu
                                                                                    lạc lõng, sượng sùng, bơ vơ xứ khách.

                      Chưa thuộc sử Nam ư? Thì nhắc cho chúng biết
                      đâu Đông Bộ Đầu, đâu Vạn Kiếp? Nhìn đấy Bình Than! (58)
                      Một dải ba lần cuồn cuộn sóng Đằng Giang
                      Chúng sẽ ngộ ra một điều thật giản đơn:            
                                                                                        Tại sao “tự cổ huyết do hồng”. (59)

                      Mỗi ngôi nhà cho đến mỗi dòng sông
                      Chúng có hiểu tại sao nhà và sông ở đây lại đều chọn phương Nam
                                                                                                    cho mặt tiền và hướng chảy?
                      Kinh thành Thăng Long giặc bao phen đốt cháy
                      mà sóng Hồng Hà vẫn ngàn năm kiêu hãnh khải hoàn ca.

                      Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam! Toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải,
                                      không phận Việt Nam có cả một phần không
                                                                thể tách rời: bầu trời, mặt nước biển
                                                                                    trong quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
                      Thềm Tổ Quốc vươn dài nơi Biển Đông
                                                                                                      trùng trùng phong ba bão tố                                                                                   
                      Cửa ngõ nhà ta, ao nhà của ta, của  nổi, của chìm của ta,
                                                                                                                                 ta phải giữ
                      Cơ nghiệp này, giang sơn này, sông núi này
                                                    phải giao lại trọn vẹn không thể thiếu một tấc
                                                                                                        cho vạn đại cháu con. (60)
                      
                                                                                          Hạ Long 8/2012
                                                                     Nhớ 48 năm ngày truyền thống đánh thắng
                                                                                        trận đầu 05/8/1964
                                                                     của Quân chủng Hải quân NDVN anh hùng
                                                                                   Khởi thảo: sáng 04/8/2012
                                                                                   Viết xong: 0h30 09/8/2012

                                                                                      NGUYỄN ĐÌNH THÁI
                    
ĐỀ DẪN:
               * Bài “Góp đá xây dựng Trường Sa vững chãi, kiên cường” Ghi chép của nhà văn, nhà báo Chi Phan, Phó Tổng Biên tập Báo Cựu Chiến binh Việt Nam trong  chuyên mục Văn hóa – Văn nghệ , trang 22 Tạp chí Cựu Chiến binh Việt Nam số 251, tháng 7 năm 2012.
               (1) CBCS trung đoàn 83 Công binh Hải quân NDVN thường ví von các công trình quân sự trên quần đảo Trường Sa do mình xây dựng là “Thành Cổ Loa trên biển”.
               (2) Các tàu của Quân chủng Hải quân NDVN đều lấy ký hiệu trên thân tàu là HQ và số hiệu (Ví dụ các tàu HQ 604, HQ 505 đã anh dũng chiến đấu ngày 14/3/1988 ở vùng biển Trường Sa).
               (3) (4) (5) Từ  sự việc năm 2011, Nguyễn Phan Hà Châu, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm TƯ TP Hồ Chí Minh mang một nắm đất từ đất liền khi ra thăm đảo Trường Sa, báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh có ý tưởng phát động chương trình “Góp đá xây Trường Sa”.
               (6) (7) (8) (9) Câu chuyện chị Nguyễn Thị Quý ở phường An Phú Đông, quận 12, TP Hồ Chí Minh là người làm nghề lượm ve chai. Trong một lần đi bán ve chai giữa trưa nắng, ngồi nghỉ trong một con hẻm nhỏ, tình cờ đọc hàng tít “Góp đá xây Trường Sa, góp lòng yêu nước” trên tờ báo Tuổi trẻ trong đống ve chai, chị đã góp hai lần (200 ngàn+300 ngàn) tổng cộng là 500 ngàn đồng nhờ báo Tuổi trẻ gửi ủng hộ “Góp đá xây Trường Sa”.
               (10) (11) Sau 3 tháng phát động chương trình “Góp đá xây Trường Sa”, báo Tuổi trẻ đã vận động được 12 tỷ đồng và xây dựng một công trình trị giá 17 tỷ đồng ở Trường Sa.
               (12) Dân số nước ta hiện nay.
               (13) (14) Khi ra thăm Trường Sa, chị Quý lặng lẽ đến bên cột mốc chủ quyền của Tổ Quốc, bàn tay chai sạn sờ lên từng dòng chữ đắp nổi bằng xi măng, cố giấu đi những giọt nước mắt xúc động. 
               15) Trong trận hải chiến ngày 14/3/1988, thiếu úy đảo phó đảo Gạc Ma Trần
Văn Phương  cùng 2 chiến sĩ Nguyễn Văn Tư và Nguyễn Văn Lanh được trung tá Lữ đoàn phó Trần Đức Thông (Đoàn 146 Hải quân) giao nhiệm vụ bảo vệ lá Quốc kỳ trên bãi đá ngầm. Khi đang giữ cờ, thấy một chiến sĩ bị uy hiếp, anh lao vào bảo vệ và bị trúng đạn, hy sinh tại chỗ. Trước lúc hy sinh anh đã nói: “ Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo. Hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân anh hùng”. Lúc ấy các anh đều không có vũ khí để tự vệ.
               Ngày 06/01/1989, Liệt sĩ Trần Văn Phương đã được Quốc Hội  nước CHXHCN Việt Nam truy           phong danh hiệu Anh hùng LLVTN Việt Nam. Anh hùng LS Trần Văn Phương sinh năm 1965, quê ở xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đảo đá Gạc Ma có tên quốc tế là Johnson South Reef. Bãi đá nơi cao nhất, chỉ khi nào thủy triều xuống mới nhìn thấy.
               (16) (17) Cột mốc ở đảo Trường Sa Lớn ghi: CHXHCN Việt Nam – Đảo Trường
Sa – Vĩ độ: 8 độ 38’30” Đông, Kinh độ: 111 độ 55’55” Bắc, khẳng định chủ quyền của nước ta đối với quần Trường Sa theo quy ước quốc tế.
               (18) Quần đảo Trường Sa có tên quốc tế là Spratly. Thời Pháp quản lý gọi là Đảo Bão Tố (lle de Tem pête).
               (19) Lá cờ Tổ Quốc ở Trường Sa được ghép trên mặt nóc bê tông cốt thép của Hội trường đảo Trường Sa lớn. Tiết diện vát chéo 14m x 30m được ghép từ 310.000 viên gốm sứ Bát Tràng phủ men nặng lửa đặc biệt để không bị nhiệt độ và muối từ gió biển làm phai màu. Mỗi viên gốm mosaic đặc biệt này cỡ 3cm x 3cm được gắn phủ trên bề mặt 12,4 m x 25 m (sau khi đã trừ gờ của mái) đã tạo thành lá cờ có diện tích bề mặt 310 m2. Từ trên máy bay hay vệ tinh, có thể chụp ảnh hay nhìn thấy Quốc kỳ Việt Nam trên nền xanh cây lá và mặt nước xanh biếc của biển Đông.
               Bốn bức tranh gốm sứ do bốn họa sĩ: Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Doãn Sơn, Phạm Viết Hồng Lam và Bùi Viết Đoàn thể hiện. Hai bức tranh hướng về phía trung tâm đảo thể hiện lịch sử của dân tộc ta gắn bó với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, giới thiệu biểu trưng cùng nét đẹp văn hóa của ba miền: Bắc – Trung – Nam và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Hai bức tranh phía sau đặc tả cảnh làng quê Việt Nam thân thuộc, trong đó có hoa sen, hoa đào, hoa mai,… Họa sĩ Nguyễn Thu Thủy là tác giả con đường gốm sứ ở Hà Nội đã được công nhận là kỷ lục thế giới và là tác giả của lá cờ gốm sứ lớn nhất Việt Nam này. (1002 năm là tính từ khi Lý Công Uẩn thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long đến 2012).
               (20) 1000 năm (Một nghìn năm) Bắc thuộc tính từ năm 179 tr.CN, khi Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương, chia Âu Lạc thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân cho đến năm 0905 sau CN, Khúc Thừa Dụ giành lại độc lập từ tay nhà Đường (theo Sử ký  của Tư Mã Thiên).
               (21) (22) Trận hải chiến giữ các đảo Cô Lin, Gạc Ma, Len Đao, cụm đảo Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa của CBCS Lữ đoàn Hải quân 146 ngày 14/3/1988 trước áp lực mạnh về quân số, vũ khí của quân Trung Quốc. Trong trận này 64 sĩ quan, chiến sỹ đã hy sinh anh dũng, trong đó có đồng chí Trần Đức Thông, trung tá Lữ đoàn phó Đoàn M 146 Hải quân là người chỉ huy có chức vụ cao nhất và có quân hàm cao nhất. Sáu chiến sĩ khác bị địch bắt.
                      (23) Khi quan sát thấy tàu HQ 604 do Anh hùng, Liệt sỹ, đại úy Vũ Phi Trừ chỉ huy bị địch bắn chìm, thuyền trưởng tàu vận tải HQ 505 do thuyền trưởng Vũ Như Lễ chỉ huy đã mưu trí điều khiển cả tàu lao lên bãi cát làm thành một pháo đài chống trả quân xâm chiếm. Tàu bị cháy 2/3, các anh vừa dập đám cháy cứu tàu, vừa kiên cường đánh trả quân giặc. Vũ Như Lễ được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND Việt Nam. Anh về hưu sống ở quận Lê Chân (Hải Phòng) với quân hàm đại tá.
(24) Sau  trận hải chiến 14/3/1988, một số thi hài các chiến sĩ không tìm thấy, giống như trận đánh thành cổ Quảng Trị năm 1972, rất nhiều thi hài bộ đội ta đã chìm xuống lòng sông Thạch Hãn hoặc trôi ra biển.
               (25) CBCNVC Công ty bay trực thăng miền Nam đã quyên góp 50 triệu đồng trong gần một giờ đồng hồ và nhắn 1048 tin ủng hộ Trường Sa.
               (26) (27) Theo thông tin từ bài ghi chép “Góp đá…” của nhà báo Chi Phan.
               (28) Một tỷ (1000.000.000) đồng. Cách viết quảng xưng của tác giả.
               (29) Theo Blog Cơm có thịt của Tiến sĩ Trần Đăng Tuấn (Nguyên Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam).
               (30) (31) Cô gái Huỳnh Thanh Thảo sinh năm 1986 bị nhiễm chất độc màu da cam, bị bệnh xương thủy tinh. Cô chỉ cao 65 cm, cân nặng chưa đầy 30kg, quê ở xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, đang sinh hoạt tại CLB Dấu chân Việt. Huỳnh Thanh Thảo phát động phong trào “Mùa hè yêu thương – Góp tấm lòng tới miền hải đảo” trong các bạn bè của mình. Sau một tháng,  quyên từ các bạn học sinh mỗi người 500 đồng, được 200 ngàn đồng và 11 lá thư, Huỳnh Thanh Thảo trao thư, tiền cho báo Tuổi trẻ nhờ gửi về Trường Sa thân yêu.
               (32) Trích hai câu trong bài thơ Huỳnh Thanh Thảo gửi tặng các chiến sĩ Trường Sa.
               (33) Theo bài báo “Góp đá…” của nhà báo Chi Phan.
               (34) Từ ngày 29/02 đến ngày 15/3/1961, Bác Hồ về thăm công nhân mỏ, đồng bào các dân tộc Khu Hồng Quảng và bộ đội Hải quân tại Quân cảng Bãi Cháy. Trên tàu HQ 254 – Hải Lâm ra đảo Hòn Rồng, Bác nói với các chiến sĩ: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay chúng ta có ngày, có biển. Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ…”
                 “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
               (35) Một ngàn năm Bắc thuộc và 80 năm Pháp thuộc tổng cộng 1080 năm cho đến 02/9/1945.
               (36) (37) (38) Nhà báo Chi Phan dẫn lời nhà thơ Trần Đăng Khoa, Giám đốc VOV có hình Đài Phát thanh TNVN, nguyên là chiến sĩ Hải quân trên đảo Thuyền Chài, cụm đảo Sinh Tồn từ năm 1975 đến năm 1994 kể câu chuyện giữa cố Thượng tướng, Đô đốc, Tư lệnh bộ đội Hải quân, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Giáp Văn Cương với chiến sĩ Nguyễn Văn Tròn. Tóm lược câu chuyện như sau:
               Khi thủy triều xuống, mỏm đá cao nhất của đảo Thuyền Chài chỉ rộng chừng 3m2 chiếu. Khi Tư lệnh đến thăm, chiến sĩ Tròn đề nghị “giấu” đảo đi bằng cách mỗi người lính dùng xẻng hất cát xuống biển. Chỉ trong một giờ rưỡi là xong, nước sẽ ngập đảo, kẻ thù sẽ không thể nhìn thấy đảo nữa. Khi tư lệnh “tặng” Tròn cái xẻng, sau đó quay lại thì Nguyễn Văn Tròn đang đắp lại đảo. Đô đốc Giáp Văn Cương hỏi:
                   - Cậu đang “giấu” đảo đấy à?
                   - Không! Con dựng xây bờ cõi bố ạ! Mà đúng ra là, chúng con “buông neo” cho Tổ Quốc khỏi bị trôi dạt!
          Chiến sĩ Tròn hóm hỉnh cười rất tươi, còn Tư lệnh lại ứa nước mắt:
               - Bố biết các con ở đây khổ lắm. Nhưng đây là đất đai hương hỏa của ông bà mình; mất đảo là mất biển, mất nước. Thế nên, bằng mọi giá, bố con mình phải giữ, con ạ!
          Chiến sĩ Nguyễn Văn Tròn rưng rưng nhìn Thủ trưởng:
                   - Vâng! Con hiểu. Ở đây khổ mấy, chúng con cũng chịu được. Không kẻ nào chiếm được đâu; Bố cứ tin chúng con đi!
               (39) Mỗi một chiến sĩ trung đoàn 83 công binh Hải quân, sau khi hoàn thành một công trình đã vác bình quân 200 viên đá từ tàu vào đảo.
               (40) (41) (43) Các địa danh xảy ra các cuộc chiến đấu trong trận chiến Biên giới năm 1979 ở Quảng Ninh.
                   - Sa Vĩ: (Đuôi cát), điểm cực bắc của Tổ Quốc về phia bờ biển còn có tên là Mũi Gót, thuộc phường Trà Cổ, TP Móng Cái (Quảng Ninh). Mũi Sa Vĩ nằm ở vĩ độ 21 độ 29’33” Bắc; Kinh độ 108 độ 04’05” Đông.
                   - Vũng Đục: Thuộc TP Cẩm Phả (Quảng Ninh), nơi thực dân Pháp xử bắn các chiến sĩ yêu nước rồi quăng thi hài xuống biển.
               (42) Thương cảng Vân Đồn ngày xưa (nay thuộc huyện đảo Vân Đồn), Cửa Lục (Cửa biển thuộc TP Hạ Long) tỉnh Quảng Ninh là các địa điểm xảy ra trận chặn đánh đoàn thuyền lương của tướng Trương Văn Hổ của nhà Nguyên 4/1288. Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư lĩnh ấn Phó tướng nhà Trần chỉ huy quân Đại Việt đánh thắng trận này, góp phần rất quan trọng vào chiến thắng lần thứ ba đội quân xâm lược Nguyên  - Mông trên sông Bạch Đằng (thuộc thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh) ngày 09/4/1288.
               (44) Núi Truyền Đăng là tên ngọn núi nằm bên mép nước vịnh Hạ Long, trung tâm TP Hạ Long (Quảng Ninh). Trước khi vua Lê Thánh Tông đi tuần thú Hải Đông, An Bang (vùng biển từ Móng Cái đến TP Hạ Long bây giờ), đỉnh núi cao này là nơi lính trạm của các triều vua thường đồn trú. Khi biên giới phía Đông Bắc có ngoại xâm, ngựa trạm báo về, họ đốt phân chó sói tạo nên cột khói cao, từ Kinh thành Thăng Long có thể nhìn thấy để triều đình định liệu kế sách đối phó và bài binh bố trận chống giặc kịp thời. Năm 1468 (TK15) vua Lê Thánh Tông ngự đề bài thơ, từ đó núi mang tên là Bài Thơ.
               (45) An Bang: Quảng Ninh ngày nay.
               (46) (47) Ngày 29/01/1258 (Niên hiệu Nguyên Phong thứ 7), vua Trần Thái Tông cùng con là Thái tử Hoảng (vua Trần Thánh Tông sau này) chỉ huy quan quân đánh tan giặc Nguyên Mông lần thứ nhất ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Kinh thành Thăng Long. Đông Bộ Đầu  thời nhà Trần nằm ở phía  bờ Nam sông Hồng, nay là khu vực đầu dốc Hàng Than – Hòe Nhai (Hà Nội) kéo dài đến Vạn Kiếp. Vua Trần Nhân Tông (17/7/1218 – 04/5/1277) đã có hai câu thơ tụng ca Tiên Đế như sau:
                                                 Bạch đầu quân sĩ tại
                                                 Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
                                                (Lính bạc đầu còn đó
                                                Kể mãi chuyện Nguyên Phong)
               (48) (49) Chỉ trận đại thắng quân Thanh của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ tết
Kỷ Dậu 1789. Năm nay là 223 năm (1789 – 2012). Bến đò Gián Khẩu (Ninh Bình), các địa                                             
danh còn lại đều thuộc Hà Nội ngày nay.
               (50) Ý chỉ địa danh Gò Đống Đa, nơi chôn xác quân Thanh. Vua Quang Trung vì truyền thống nhân ái của dân tộc ta và cũng là muốn không để triều đình Mãn Thanh mất thể diện đã cho xây “Đền” (mỉa mai) tên tướng Sầm Nghi Đống tại nơi y treo cổ tự tử và miếu thờ giặc Thanh chết trận.
               (51) “Bình Ngô đại cáo” - Ức Trai – Nguyễn Trãi thời Lê.
                       “Hịch tướng sĩ văn” – Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương  Trần Quốc Tuấn thời Trần.
                       “Tuyên ngôn độc lập” – Chủ tịch Hồ Chí Minh.
               (52) Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng dạy sử ở trường Bưởi cùng thầy dạy của mình là Giáo sư, nhà văn hóa lớn Đặng Thai Mai trước khi đi hoạt động cách mạng.
               (53) Trước khi đánh trận quyết định ở làng Ngọc Hồi để chấm dứt nhanh sự có mặt bất hợp pháp của người Mãn Thanh tại Thăng Long, vua Quang Trung có xuống chỉ dụ (thường gọi là Hịch ra trận):
                                                 Đánh cho để dài tóc
                                                 Đánh cho để răng đen
                                                 Đánh cho nó chích luân bất phản
                                                 Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
                                                 Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
               (54) (55) (56) Bài thơ “Thần” hay “Nam Quốc sơn hà” tương truyền là của Thánh Tam Giang (đền Và) thờ hai anh em: Thượng tướng Trương Hống và Phó tướng Trương Hát (Xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Hai ông theo Triệu Việt Vương vàcó công lớn trong việc đánh thắng quân nhà Lương năm Canh Ngọ (0550) giải phóng đất nước Vạn Xuân. Tương truyền khi đi phá quân Tống năm 1076 (Triều Lý Nhân Tông thứ 5) ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu), Thái úy Lý Thường Kiệt đã đến thắp hương tại đền Xà. Đêm nằm nghỉ ở đình Xà, 2 vị thần đã hiện lên đọc cho ông nghe bài thơ đó. Khi dẫn đại binh sang bờ Bắc sông Cầu bí mật tập kích trại giặc, nhờ âm binh  của Thánh Tam Giang cùng tiếng Thần đọc bài thơ “Nam Quốc sơn hà” mà tinh thần quân sĩ phấn chấn, quân giặc run sợ, hoảng loạn nên quân nhà Lý toàn thắng. Toàn văn bài thơ:
                                       Nam Quốc sơn hà, Nam Đế cư
                                       Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
                                       Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
                                       Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư.
               (57) Ở xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, trên đường QL1A Hà Nội – Lạng Sơn có di tích môt tượng người bằng đá quỳ gối, cụt đầu. Tương truyền đó là Liễu Thăng, viên tướng nhà Minh dẫn quân sang xâm lược nước ta thế kỷ XV, đã bị Lê Sát, một dũng tướng của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) chém cụt đầu tại trận chiến Ải Chi Lăng năm 1427. Trong bài “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã ghi lại sự việc này như sau:
 “Bản nguyệt thập bát nhật, Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã Bản nguyệt nhị thập nhật, Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên sơn”
                             (Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
                             Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu).
               (58) Các địa danh diễn ra các chiến dịch lớn của quân dân ta thời Trần, thế kỷ XIII trong ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông (Thát Đát). Tên gọi Thát Đát (Phiên âm Hán – Việt) có nguồn gốc tên gọi hai tộc người Mông Cổ quen chinh chiến, có tên là Tata (Tatar) và Tuyêc (Turque)
               (59) Giang Văn Minh (1573 – 1639) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, làm quan dưới thời Lê Trung Hưng. Năm 1637 (năm Dương Hòa thứ 3 đời vua Lê Thần Tông), ông thọ mệnh vua đi sứ sang nhà Minh dẫn cống và cầu phong. Trong lễ khánh thọ của mình năm 1639, Minh tư tông Chu Do Kiểm (Minh Sùng Trinh) ngạo mạn ra một vế đối cho sứ thần An Nam:
                                                    Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
                                             (Cột đồng nay đã rêu phong bám)
               Chánh sứ thần Giang Văn Minh cứng cỏi, hiên ngang đối lại:
                                                    Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
                                                    (Sông Đằng từ xưa máu vẫn đỏ)
               Minh Sùng Trinh thẹn quá mất khôn, bất chấp luật lệ bang giao, sai trám mắt, trám mũi và mổ bụng Giang Văn Minh xem “bọn sứ thần An Nam to gan, lớn mật đến đâu”. Tuy thế, Sùng Trinh rất kính phục tiết tháo của ông, cho ướp xác Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân và cho quân hộ tống về nước. Vua Lê Thần Tông cùng Chúa Trịnh Tráng thân ra bái kiến di hài Giang Văn Minh và truy ban câu:
                               “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”
                (Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
                 (60) Sách Đại Việt Sử ký bản thử thực lục chép rằng: ngày mùng 03 tháng 4 năm Quý Tỵ Hồng Đức năm thứ tư (1473) tức năm Minh Thành Hóa thứ 9 có sựviệc triều đình nhà Minh cho quân lấn chiếm đất các lộ Cao Bằng, Lạng Sơn. Vua Lê Thánh Tông (Thuần Hoàng đế) đã xuống đạo chỉ dụ cho Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy lên Ải Nam quan đấu tranh ngoại giao để đòi lại đất: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang Phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.

Cột mốc chủ quyền ở Trường Sa bây giờ.
Cột mốc chủ quyền ở Trường Sa bây giờ.