Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

NHÀ THƠ NGUYỄN THÁI SƠN

Qua FB, tôi đã mạo muội vào thăm 4 tòa lâu đài tráng lệ của nhà thơ Nguyễn Thái Sơn:
1/nguyenthaison1710.blogspot.com
2/nguyenthaisondannuoc.blogspot.com
3/dannuoc.blogspot.com
4/dannuoc6.blogspot.com
LÃO NÔNG PHU xin trân trọng giới thiệu hai bài thơ của anh đăng trên blog NGUYỄN THÁI SƠN (nguyenthaison1710.blogspot.com)

1- THĂM MỘ CHIỀU CUỐI NĂM

Vạt đồi yên nghỉ bao Đồng đội
Nhang trầm
                  một thẻ
                             biết làm sao!...
Thắp lên
             đành cắm nơi đầu gió
Hương
          Khói...
                      đừng quên Nấm Mộ nào!
                                           
                                                             1980



2/ GẶP NẤM MỘ NGƯỜI CÙNG QUÊ Ở TÂY NGUYÊN


Chị tháng Bảy tôi tháng Mười
sinh cùng năm - cũng gốc người Nam Sang (*)
rừng cao su lá ngập vàng
mảnh bia mờ chữ chân nhang nhạt màu

tha hương thân phận như nhau
đá lăn khỏi núi quả cau rã buồng
đời người như chỉ treo chuông
biết rằng dài ngắn tròn vuông thế nào

quê nhà thóc kém gạo cao
người ra Hồng Quảng kẻ vào Đắc Nông
đành rằng ruộng hẹp người đông
thiếu đâu dăm thước đất đồng chị ơi !

ngổn ngang vải nát ván thôi  (**)
nước dâng nửa huyệt, cát bồi lưng bia
người thân đã đón chị về ?
gạch Châu Sơn, đá Kiện Khê “lập nhà”

gò cao dứa ngộ trắng hoa
đất nâu ấm cốt phù sa mát hồn
trăng rằm đọng vũng đường thôn
trầu không hụt lứa, cau non sớm cằn

lang bang tất tưởi nhọc nhằn
áo mặc dẫu ấm, bát ăn dù đầy
mình như thuyền mộc thương cây
rồi ra cũng nhẩm tính ngày về quê…

 Phương Nam, 1998
---------------------------------------------
(*) Nay là vùng Hà Nam, Nam Định
(**) Ván quan tài sau khi cải táng


Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

ĐÒ NGHỆ XUÂN THIỀU*

LÃO NÔNG PHU xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà toán học, nhà thơ - Ông đồ xứ Nghệ  Vương Trọng. Xin cảm ơn nhà thơ đã cho bạn đọc thưởng thức bài viết hay về nhà văn tài danh đã khuất, đồng hương của anh: Nhà văn Xuân Thiều


Ảnh: Nhà thơ Vương Trọng

Ngày chưa về công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, cách đây trên 35 năm, tôi thuộc khá nhiều câu thơ trong những bài thơ của ông, lúc thì mang tên Xuân Thiều, lúc thì với bút danh Nguyễn Thiều Nam, bây giờ có thể chép lại theo trí nhớ. Đó là hai câu kết trong một bài viết về khẩu đội pháo phòng không trên đỉnh núi : " Giá mà kéo núi lên cao nữa/ Giáp mặt quân thù đánh tuyệt hơn". Đây là khổ đầu trong bài thơ viết về tiểu đội bộ binh quân giải phóng ở miền Nam: " Ngủ một giấc ngày mai đi đánh giặc. Tiểu đội nằm ôm nhau trong hầm chữ A. Bom toạ độ réo qua nhưng cơn mơ căm giận. Và cơn mơ xanh trời quê ta"...Khi về công tác ở Tạp chí, tôi mới biết ông viết văn xuôi là chính, thơ chỉ làm tay trái cho vui, và trong hơn ba mươi năm sống gần ông, tôi hiếm thấy ông làm thơ, mặc dù văn xuôi thì xuất bản đều đều, cả tiểu thuyết và các tập truyện ngắn. 
Giống như nhiều nhà văn quê Nghệ Tĩnh, Xuân Thiều đặc biệt yêu thích chơi chữ và làm câu đối. Thế nhưng khi tôi được Ban biên tập giao trách nhiệm lo phần câu đối báo tết, tìm đến ông để "đặt hàng" thì ông lắc đầu từ chối:
- Câu đối là trò chơi chữ. Thế nhưng trên báo tết hiện nay, câu đối hầu như không còn chơi chữ nữa, mất cái hay của câu đối. Viết cho hay hơn, thì mình không viết được, viết như thế, thì chả viết làm gì...
Rồi nhân tiện, ông đọc những câu đối " quái chiêu" của ông từng sáng tác, tôi nghe, " tâm phục, khẩu phục". Có điều, nhiều câu đối tuyệt tác của ông rất khó công bố trên báo chí vì lẽ này hay lẽ khác, mà nó chỉ được truyền miệng theo lối văn học dân gian, ví như các câu đối có địa danh Hóc Môn, Gò Công, Củ Chi…Còn những câu đối của ông đã được công bố tuy không xuất sắc bằng những câu " dân gian" kia, nhưng vẫn khá hay. Ví dụ như năm 1972, khi nhà thơ Vũ Cao, chủ nhiệm Tạp chí, và nhà văn Từ Bích Hoàng, phó chủ nhiệm, cùng bước sang tuổi năm mươi, Xuân Thiều có tặng hai thủ trưởng của mình một đôi câu đối khá hóm hỉnh và nghe cũng rất "sái":
Cậu năm mươi, tớ năm mươi, ờ nhỉ đôi ta tròn trăm tuổi
Đó cấp tá, đây cấp tá, ơ hay hai đứa chẵn đôi quan.
Xuân Thiều khoái hai chữ trăm tuổi và đôi quan, các nhóm từ mà người ta thường kiêng vì mang ý nói về cái chết, nhưng ở đây ông giả vờ hồn nhiên như chỉ " thấy sao nói vậy".
Đó là đối với hai thủ trưởng, còn với hai bạn văn là Ngô Văn Phú (Ban thơ), Vương Trí Nhàn ( Ban lý luân phê bình) của tạp chí, Xuân Thiều cũng làm câu đối mục đích để trêu đùa, chứ không hề có ý chê bai năng lực văn học của bạn mình. Câu đối ấy như sau:
Vương Trí Nhàn, mà trí chẳng nhàn, vương vãi hoài chút trí
Ngô Văn Phú, sao văn không phú, ngô nghê mãi nghề văn.
Một ngày tôi đến thăm nhà ông, mục đích là để sưu tầm một ít câu đối " dân gian" mà ông mới sáng tác. Ông hỏi thăm tôi về tình hình con cái, rồi tiện thể, ông nói về công việc của bốn đứa con của ông, hai trai, hai gái. Mừng cho ông vì cả bốn cháu đều làm ăn khấm khá, có cháu là giám đốc công ty lớn.Nghe xong, tôi cười và nói với ông:
- Đối với anh bây giờ thì Chả lo gì, chỉ lo già!
Xuân Thiều rất khoái trò chơi chữ ở đây, là một câu nói lái, nội dung lại rất đúng với hoàn cảnh của ông. Thế rồi có lần ông kể lại chuyện này trong một bài báo, độc giả tưởng đây là một vế thách đối , nhiều người gửi vế đối về. Một hôm Xuân Thiều tìm gặp tôi, khoe có một độc giả ở Hà Tĩnh, có vế đối khá hay, chỉ tiếc luật trắc bằng chưa chuẩn lắm. Độc giả ấy nói rằng, với các bác giàu có thì Chả lo gì, chỉ lo già, còn với những người nghèo khổ chúng em thì Nỏ cần chi, chỉ cần no!
Lần đầu tôi đi công tác với Xuân Thiều là tháng 5 năm 1975. Chính xác hơn, khi đó tôi là người của Tạp chí Văn nghệ Quân đội đang biệt phái ở Văn nghệ quân giải phóng, còn Xuân Thiều mới vào Sài Gòn. Coi mình là người đến trước, thông thạo thành phố hơn, tôi dẫn Xuân Thiều đi xem Sài Gòn. Mặc dù chúng tôi đều mặc thường phục, nhưng đi đến đâu, người ta vẫn gọi chúng tôi là bộ đội, và mời các chú bộ đội mua hàng. Tôi đi trước giải phóng, lương để lại Bắc cho vợ con nên không có tiền để mua bất cứ cái gì, còn Xuân Thiều mới vào, có mang theo tiền, nhưng ngoài việc chiêu đãi tôi và Lê Thành Nghị những bát hủ tiếu, ông không dám mua bất cứ thứ gì, vì lúc đó có quy định bộ đội không được mua hàng! Một hôm Xuân Thiều, Lê Thành Nghị và tôi đi vào bùng binh Bến Thành, thấy có người gạ bán máy ảnh Cannon khá mới, chỉ với giá ba mươi đồng. Xuân Thiều cầm máy ảnh xem, có vẻ thích thú nhưng bỗng nhiên trả lại máy cho chủ, lảng đi nơi khác. Tôi đi theo hỏi:
- Anh không mang theo tiền à?
- Có chứ.
- Máy ảnh cũ quá à?
- Còn rất mới.
- Đắt quá à?
- Rất rẻ.
- Thế sao anh không mua?
- Thế cậu không biết trên quy định cấm bộ đội mua hàng hoá à?



                              Nhà văn Xuân Thiều


Tôi và Lê Thành Nghị thuyết phục anh rằng, hàng hoá là những thứ to tát như ti vi tủ lạnh, xe máy...còn máy ảnh này mình mua để phục vụ cho công việc của phóng viên ...Nếu anh ngại thì đưa tiền đây, chúng em mua hộ, rồi anh trả tiền công bằng hủ tiếu!
Lúc đó tay bán máy ảnh theo lại gần tận nơi, Xuân Thiều nhìn trước, nhìn sau rồi lấy ra ba mươi đồng dúi vào tay Lê Thành Nghị, vội vàng lảng ra nơi khác. Cái máy ảnh Cannon mà Xuân Thiều dùng trong nhiều năm sau này có xuất xứ như thế!
Là một nhà văn thích đổi mới và sâu sắc, là một ông Đồ Nghệ hay chữ, nhưng Xuân Thiều còn là một cán bộ quân đội khá thích nghi với công việc hành chính. Từ năm 1979 đến 1982, hơn ba năm là Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, phụ trách hành chính nội bộ, Xuân Thiều phát huy khả năng hành chính của mình. Đó là thời kỳ đất nước cực kỳ khó khăn về kinh thế, lo chuyện cải thiện đời sống cho anh em trong cơ quan đâu phải chuyện đơn giản. Xuân Thiều và lái xe Phạm Hồ, mỗi năm không biết bao nhiêu chuyến đi về Hải Hậu ( Nam Định) và Ninh Bình để lo chuyện mua thêm lương thực cho anh em trong cơ quan, cũng như đi mua lợn về nuôi nhốt ở phía sau cơn quan, sao cho dịp tết có thể chia cho mỗi người vài cân thịt, dù là thịt đa khoa như anh em vẫn nói đùa, nhưng đã tạo niềm vui lớn cho mọi người. Hay như mấy năm ông được biệt phái sang Hôi Nhà văn lo công tác văn phòng, ai cũng phải thừa nhận ông là một cán bộ hành chính mẫu mực về duy trì giờ giấc cũng như quán xuyến công việc. 
Yêu thích và có tài sáng tác nhiều câu đối hay, đó chỉ là một phần chất " Đồ Nghệ" trong Xuân Thiều. Ông là một nhà văn tận tuỵ, có trách nhiệm trông công việc bồi dường những cây viết trẻ. Khi có các ai nhờ đọc tác phẩm và góp ý, ông đọc rất tỷ mỉ, sửa chữa từng chi tiết nhỏ, dù tác phẩm đó là thơ, truyện ngắn, hay cả tiểu thuyết. Khi được mời vào làm ban giám khảo các cuộc thi truyện ngắn, tiểu thuyết, ông không những đọc hết, mà đọc kỹ, phát biểu đúng chính kiến của mình, chứ không hề nói dựa, điều mà một số vị giám khảo quen làm! Tháng 8 năm 1991, Hội Văn nghệ Sơn La có mời ông và tôi lên trao đổi kinh nghiệm và đọc bản thảo của các trại viên. Chúng tôi lên ngay sau trận lũ lịch sử, nhà của em trai Xuân Thiều bị lũ trôi hoàn toàn, em trai ông bị chết, thế là ngoài việc giúp đỡ gia đình người em ổn định nơi ăn ở và điều kiện sinh hoạt, Xuân Thiều vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người hướng dẫn sáng tác, thể hiện trong việc lên lớp, đọc bài, góp ý sửa chữa, làm cho anh em trại viên hết sức cảm động. Chính trong dịp này, Xuân Thiều phát hiện ra cây bút truyện ngắn Sa Phong Ba, sau đó không lâu đã trở thành nhà văn. Rồi trại viết của Tạp chí tổ chức ở Cửa Lò năm 1993, cũng vậy. Trưởng trại Xuân Thiều hết sức quan tâm đến những cây viết nghiệp dư, muốn tận dụng thời gian giúp đỡ họ. Và ngay đối với các nhà văn tên tuổi tham dự trại, Xuân Thiều vẫn quan tâm, theo dõi, góp ý với các tác phẩm của họ, để cho chất lượng cao hơn. Truyện ngắn Vịt trời lông tía bay về của nhà văn Hồng Nhu, hình thành, ra đời trong trại viết này, sau đó đoạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí, là một ví dụ.
Có một chuyện mà không phải người nào cũng biết là công việc của nhà văn Xuân Thiều đối với thơ và văn của Phùng Khắc Bắc. Bây giờ thì nhiều bạn đọc biết được Phùng Khắc Bắc là một nhà thơ có tài, với tập thơ Một chấm xanh từng được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Thế nhưng đến năm 1991, khi Phùng Khắc Bắc mất đi, thì không mấy ai biết anh có làm văn chương, mà chỉ nghĩ anh vốn là một cán bộ của Phòng văn nghệ Quân đội, sau chuyển sang làm cán bộ văn phòng của Hội Nhà văn. Sau khi Phùng Khắc bắc mất, chính nhà văn Xuân Thiều đã thu thập bản thảo của Phùng Khắc Bắc, hầu hết là chưa từng được công bố. Xuân Thiều bỏ ra mấy tháng trời để chọn lọc, phân loại, biên tập, liên hệ xuất bản, để có được tập thơ Một chấm xanh và một quyển tiểu thuyết, mà cả hai sau khi xuất bản đều được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Nếu như không có công lao của nhà văn Xuân Thiều, đến hôm nay, chắc hẳn các tác phẩm của Phùng Khắc Bắc chưa đến tay bạn đọc, họ không biết Phùng Khắc Bắc là ai, và trong mắt nhìn của các nhà văn, Phùng Khắc Bắc chỉ là một cán bộ văn phòng!
Anh Xuân Thiều ơi! Hội Nhà văn lại khôi phục lớp bồi dưỡng sáng tác ở Quảng Bá như những năm nào. Giá chưa rời bỏ trần thế thì tôi tin thế nào anh cũng tự nguyện đến Quảng Bá để giúp đỡ những người viết trẻ trong những khoá học sắp tới. Nhưng anh đã về Công viên Vĩnh Hằng ở Bất Bạt, gần quê hương nhà thơ Quang Dũng, ngước trông lên thấy ngọn Ba Vì và thầm đọc câu thơ " Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm" như bao lần anh đã đọc trong hai tuần lao động ở Mỏ Chén, Hoà Lạc năm nào. Bảy mươi tám tuổi chưa phải là nhiều nếu so với tuổi thọ của nhà văn Nguyễn Lân, nhà thơ Khương Hữu Dụng..., nhưng anh cũng thọ bằng bác Thanh Tịnh, lão tướng của ngôi nhà Số Bốn, người " năm sinh có ghi ở Nhà hát lớn Thành phố", và anh thọ hơn nhà văn Nguyễn Minh Châu, một người bạn đồng niên, đến những mười tám năm! Anh vẫn thường đọc cầu thơ: " Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu", và tôi tin ở chốn suối vàng nghĩ lại, không bao giờ anh nghĩ rằng mình chết trẻ. Tôi đã dịch thơ xong toàn bộ 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, thế là không kịp xuất bản để tặng anh như anh đã dặn. 
Vĩnh biệt anh! 
Một đứa em, người bạn vong niên có chất Đồ Nghệ như anh.

Hà Nội, 07 - 4 – 2007
Vương Trọng

* Bài viết của nhà thơ Vương Trọng trên facebook ngày 3/7/2013

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

LÊN QUÁN DỐC*

      Trước khi lao vào cầy, tặng chư vị có lòng ghé đến trang của mỗ dăm câu thơ còi. Đây là bài thơ gần như duy nhất mỗ thuộc trong đống thơ của mỗ.



Mình lên Quán Dốc đấy à.
Đợi ta vợi chút là đà được không.
Ta như một kẻ nạ dòng
Khoả tay xuống lũ vớt lòng trinh lên
May mà có chút tình riêng
Nên liều đánh cược đỏ đen với đời
mênh mông là mênh mông ơi
nửa đêm trăng tỏ ra khơi một mình
Nắng thu vàng cốm sân đình
Cũng liều mang nửa mảnh tình ra phơi
Người ơi. Người hỡi. Người hời
Nhớ chưa? Ở cuối cuộc đời. Đợi ta
                                                                Nguyễn Hiếu
* LÃO NÔNG PHU tự đặt tên vì nhà văn Nguyễn Hiếu không tự đặt tên bài thơ. So với bản gốc mà tác giả viết trên facebook, LÃO NÔNG PHU biên tập lại mấy dòng tự giới thiệu của tác giả - Nhà văn Nguyễn Hiếu cho rõ nghĩa hơn nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần của tác giả trong mấy câu đó.

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

DÒNG SÔNG THƯƠNG NHỚ

          Nhà thơ Nguyễn An hiện đang sống và làm việc tại thành phố Hạ Long. Phòng văn của anh bên bờ vịnh Hạ Long xinh đẹp.
          Tôi hay ngồi với anh trong phòng văn đó. Gió từ biển lồng lộng. Nhà anh sát ngay bên bờ vịnh, chỉ cách có một con đường bao biển hai làn xe dành cho du lịch. Tưởng chừng với cánh tay ra khỏi cửa sổ là sẽ có thể vốc được một vụm nước biển Hạ Long. Ngoài kia, biển vẫn xanh như tự thưở nào..
          LÃO NÔNG PHU xin giới thiệu một bài thơ trong tập thơ "NHỚ QUÊ" mới xuất bản 6/2013 của nhà thơ Nguyễn An. Điện thoại: 0913263039


Gặp em bên bến đò ngang
Mái chèo khua nước ngút ngàn... trời sao
Triều lên, con nước dâng cao
Thoảng nghe câu hát đồng dao vơi đầy

Nửa thì tỉnh, nửa lại say!
Nửa ngân ngấn, nửa bàn tay xa mờ
Nửa đi, nửa lại ngóng chờ
Cứ thăm thẳm tận bến bờ nhớ mong

Người đi, ngoảnh lại nhìn sông
Trời không nổi gió để lòng lá bay 

Mùa xuân 2012
Nguyễn An

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

NHỊP RIÊNG NÀY CHO TA





Ấu thơ một thời
Phơi ngửa lá bàng non
Đàn bướm lượn vòng hoang dại
Lưng nhễ nhại, chiều loang mây tái
Ba vạn sáu ngàn ngày trôi veo
Trăng trong veo thoắt trăng nhăn nheo
Nhện giăng mùng.
Vườn xưa, đom đóm lạ.
Lông mày cong cài then trưa nắng lóa
Ngực trống quân nhưng nhức thì thùng

Bộn bề cuối trời
Lá trầu vàng úp xấp .
Vị cay nghẹn cuống thâm
Ngó sen dấu tận đáy đầm
Nhớ teo lòng mà không dám gặp
Kiếp người gang tay. Cuồng vó ngựa phi
Chưa nếm ngọt đời.
Đời đã nhạt đi.
Vậy mà hoa sáng nay vẫn hương .
Lại có nàng thả lời vấn vương.
Áo xanh chủng chẳng xuân .
Canh ba thức giấc ướt đầm lá dâu.

Chàng màng hỏi về đâu
Đầu sông buồm xa vuốt gió.
Cuối chuông thỏ non ăn cỏ
Rượu bồ đào chưa chạm đã say
Cà cuống chết không tàn vị nồng cay .

Sáng 31/12/2012
Nguyễn Hiếu
( báo Văn nghệ 22/6/2013)

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

ĐỢI

                      

                                     Nghe Thúy Mỵ hát trên Đài TNVN


  “ Em đứng trên cầu đợi anh”*
    Câu hát cứ xoáy vào nỗi nhớ
    Van em,
    đừng hát nữa, em làm khổ tôi
    Đừng hát nữa, em ơi 
    Tôi sắp hóa đá.                                                                                                          
    Dưới  chân cầu
                          nước chảy vô tình
                                                      mòn mỏi                                       
    Câu hát vô tình 
                           nhức nhối
    Chỉ còn trái tim run rẩy,
    không hóa đá  bởi  thời gian

          
    *Câu mở đầu ca khúc “ ĐỢI “
                       Nhạc: Huy Thục
                       Thơ : Vũ Quần Phương
                                                                           Cọc Sáu 11/8/2005       
                                                                         NGUYỄN ĐÌNH THÁI









      

TÙY HỨNG CHÈO

      Chủ blog LÃO NÔNG PHU vừa nhận được bài thơ của nhà văn Nguyễn Hiếu từ Hà Nội gửi tặng qua email hồi 17h 29 ngày hôm nay (24/6/2013). Xin kính giới thiệu bài thơ TÙY HỨNG CHÈO của anh. Nguyễn văn bài post từ email.



      Gửi ông em họ Nguyễn ở vùng than. Nghe ông em than thừa vài chỗ trên blog, có xin một bài còi. Nay gửi cho ông em để lấp chỗ trống , cũng là chia vui cùng thiên hạ sau cơn mưa tạnh.

Tuỳ hứng chèo

Lòng đang sử rầu miệng lại hát lới lơ.
Ta hóa thằng Nô, ta đi ra phố.
Phú ông sáng nay đổ đốn làm thơ
Ta ngắc ngư bên Súy Vân giả ngố
Thiu thiu buông lời lắp bắp “Mầu ơ …”

Nô ta cách cô Mầu hai tao sa mạc
Trống quân um thùm động đậy cả mây.
Thị Kính buồn mở cửa xe Le xục
Mõ nhặt khoan sắp qua cầu vinh nhục
Kim Nhan đường trường dùng dắng ai đây

Cách bẩy thôi đò, cách ba duyên kiếp
Đầu đời ối kẻ ghẹo nhau.
Già rồi đểnh đoảng trầu cau.
Giữa câu xẩm xoan gà con chiêm chiếp
Nàng à…Xin hẹn kiếp sau.

Chòng chành sa lệch chênh cổ kiêu ba ngấn
Nghểnh ngảng yếm đào, nhạt miệng trái mơ.
Ta là Nô qua lới nọ vẫn là Nô
Con gà rừng gáy vang niềm hận
Sao đời này cứ lắp bắp mãi ”Mầu ơ…”

                                      Quỳnh Mai, mùa đông Nhâm Thìn 
                                                         (29/11/2012)

                                                         Nguyễn Hiếu 

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

NHÚT VÀ TÔI

Nhà thơ Lê Huy Mậu, tác giả phần lời của bài hát KHÚC HÁT SÔNG QUÊ của nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo vừa post lên facebook bài thơ NHÚT VÀ TÔI. Tôi đã xin phép anh đăng lại lên LÃO NÔNG PHU

NHÚT VÀ TÔI 

Nhút là quê. Nhút cũng là nghèo!
Nhưng nhớ nhút, nhớ nghèo là nỗi nhớ đẹp!
Chiều ngồi mở vại nhút ký ức
Lôi nhút ra xào một đĩa thơ chơi!

Nhút là quê. Nhút cũng là tôi!
Là xơ mít. Là hoa chuối hột!
Là cái vại sành úp chiếc nón thủng chóp
Là bị bỏ quên đâu đó ở sau hè!

Chỉ tới khi mưa gió não nề
Lụt đóng trước, đóng sau mẹ không chợ búa được!
Là khi sau hè nhà sẵn sàng vại nhút
Lùa bát cơm tháng tám ngày ba!

Sang Sê-un được đãi món kim chi!
Bỗng nhớ nhút Thanh Chương quê mình quá!
Nhút là tôi. Nhút cũng là văn hóa!
Nhút và tôi- Bản sắc một vùng quê!
18/6/2013





Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

CŨNG BỞI ĐỜI THÔI

Một bài thơ... đồng dao kiểu... người lớn hay hay của nhà văn Nguyễn Hiếu trên facebook sáng 18/6/2013. Anh đã đồng ý cho phép tôi đăng trên LÃO NÔNG PHU. Kính chúc nhà văn vui khỏe và viết sung sức! Xin giới thiệu với bạn đọc bài thơ... đồng dao người lớn: "Cũng bởi đời thôi" của anh 





Ta còn ham lắm ta ơi
Khi còn nước, khi còn trời, còn em
Trăng còn thũng thẵng bên thềm
Chung chiêng chiếc lá nửa đêm lìa cành
Mình còn hổn hển “kìa anh”
Có con sáo sậu bỗng thành chim di
Trèo cau Tấm vẫn gọi “dì”
Ếch vẫn oàm oạp – Ba Vì chưa cao
Người còn chưa cạn chiêm bao
Ông Tơ lúng túng chỉ đào vụng xe
Bà Nguyệt giờ đã nái xề
Mải lo giữ cháu quên nghề nối duyên
Dù ai đã hết Thuyền Quyên
Cái lúm đồng tiền vẫn đáng đồng ba
Dù ai giờ đã rất xa
Rau muống luộc với quả cà trôi cơm
Thôi rồi lỗ hổng cây rơm
Chạm tay nhau vẫn dỗi hờn đấy ư?
Đâu còn sớm nắng chiều mưa
Hai đầu đời, võng đà đưa chưa dừng
Ấy ơi chua ngọt đã từng
Già rồi mà vẫn dưng dưng vì đời

Những ngày chót Canh dần
Nguyễn Hiếu

Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

NHỚ CHA*

Ngày hôm nay 16/6 là ngày của Cha. 
Con xin thắp nén hương dâng Cha   



                                Thanh minh này con chẳng còn Cha
                                Nấm mồ lạnh, cỏ vàng xanh một nửa
                                Khắp cánh đồng, xanh màu xanh của lúa
                                Chỗ Cha nằm quạnh quẽ, hắt hiu

                                Cả một đời dành dụm, chắt chiu
                                Lặn lội thân vạc đồng Đầm, đồng Dệ
                                Mò ốc cuối trời, mò cua đáy bể
                                Có ghềnh sông nào Cha không đến Cha ơi
                            
                                Rét thấu xương, Cha lặn ngòi, ngoi nước
                                Nắng cháy da, leo đồng cạn, lội đồng sâu
                                Vai vác cày, tay Cha dắt con trâu
                                Ngọn roi chiều ấy, rèn nết người con đó

                                Một bàn tay đầy, trưa hè Cha làm gió
                                Hai bàn tay vơi, Cha vực đỡ đời con
                                Khoai mốc Cha ăn, nhường con lưng cơm
                                Manh áo lành, Cha dành con đi học
                            
                                Cha nằm đây giữa lạnh lùng gió bấc
                                Nén hương đây con sưởi ấm lòng Cha
                                Rồi mai kia con lại đi xa
                                Cha lại dắt tay con như ngày xưa, Cha nhé

                                                                        Làng Gọc
                                                     Thanh minh đầu cha đi xa (1998)
                                                              Ngày Cha sinh con 17/3
                                                                      Tròn tuổi 40

                                                             NGUYỄN ĐÌNH THÁI

* Rút trong tập thơ LỬA THAN – NXB Hội Nhà văn 2012


 





                                      

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

MỘT NGÀY MƯA

Lữ Mai

     Lữ Thị Mai là cái tên quen thuộc trong làng thơ trẻ hiện nay. LÃO NÔNG PHU rất vui khi được giới thiệu những tác phẩm của chị trên blog. Mong rằng góc nhỏ của Lữ Thị Mai trên blog LÃO NÔNG PHU sẽ luôn cập nhật những tác phẩm mới để bạn đọc được thưởng thức những thi phẩm đậm chất nữ tính, được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, đượm buồn; nhịp điệu thơ chậm, thấm dần vào lòng người đọc và đọng lại rất lâu. 

Bài đăng đã được sự đồng ý của nhà thơ Lữ Thị Mai qua FB. Xin cảm ơn chị!


có gì đâu mà buồn
qua đêm sông Hồng quặn thắt
đối thoại chiêm bao bằng môi khóa
kín mít phức âm 
.
ta đốt từng búp lửa tìm hoa
hàng rào cũ ngòi pháo câm phát nổ
người năm ấy giong thuyền buồm lặng ngắt
nay quay về thẫm đỏ ngày mưa
.
anh mải mốt không dưng tìm đến
cánh chuồn kim xao nhãng buổi hẹn hò
tháng Sáu bủa vây mắt ướt
thiêm thiếp em thánh thót 
.
hiên nhà lóe búp hoa vằng vặc
gọi trái bưởi non bầm bởi ngón chơi chuyền 
cớ gì đâu em buồn
hỡi nụ cười di - gan nửa miệng

                                             Lữ Thị Mai




KHÔNG BÁO TRƯỚC

Hôm qua có một bạn ở xa, lần đầu gọi điện thoại kêu: "Sao giọng cô trẻ thế ạ?" Mình đưa lại bài thơ này để các bạn thấy là PTTN đã tự chán mình đến mức nào nhé: "Tôi mà không mông má- Trông khác gì giẻ lau..."





Từ ngày chàng lấy vợ
Rồi định cư nước ngoài
Họ không hề gặp gỡ
Không một dòng email

Bất ngờ chàng gõ cửa
Nàng cũng hơi càu nhàu:
"Tôi mà không mông má
Trông khác gì giẻ lau!"

- Ừ, tôi không báo trước
Để thấy bà như xưa
Áo con thì không mặc
Tóc chỉ còn lưa thưa...

Họ trêu đùa chọc phá
Chê xấu nhau đủ điều
Tiếng cười như nắc nẻ
Không một lời thương yêu

Chàng lặng thầm nhận biết
Chiếc áo nàng đang mang
Là áo len xưa cũ
Chàng cởi trao cho nàng

Một ngày đông buốt giá
Cái thời còn đói ăn
Cái thời còn thiếu mặc
Cái thời đầy khó khăn...

Trong căn phòng sang trọng
Bàn nở đầy hoa tươi
Chàng không hề báo trước
Bỗng gặp thời đôi mươi.


                            Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn

              



Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

NỠM, TÙY HỨNG

      Khoảng gần 16 giờ 09/6/2013, nhà văn Nguyễn Hiếu post lên facebook bài thơ NỠM, TÙY HỨNG. Chỉ những bậc thầy về ngữ nghĩa mới có thể thăng hoa trong sự kỳ diệu của ngữ nghĩa. Tôi không tự tin lắm nên không dám hứa với anh sẽ viết bài bình về bức THI HỌA này. Xin nhường cho các bậc đàn anh thẩm định. Có lẽ tôi phải gửi qua email cho nhà thơ, nhà văn Dương Phượng Toại ở Chi hội VHNT thị xã Quảng yên. Anh là nhà thơ của đồng quê. Anh sẽ có cái nhìn thấu đáo hơn qua trang blog cá nhân của anh: MIỀN SÔNG TRĂNG hoặc GIÓ ĐỒNG QUÊ.


Chao ơi, oản tháng giêng 
Sao chùa làng không dâng 
Vẹo tròn đầy thềm trước giại 
Khoanh chân, rung ria. Mèo mướp
Thân cau buồn thẳng lay lay 

Chén nghiêng chập chờn say 
Tay phảy quạt bắt chuồn kim 
Dải yếm đào chùng 
Bồng đảo gió lồng say 
Nắng nhẹ trùm cây

Đẫy tay cặp bánh dầy 
Nếp mùa trắng tinh con nhộng 
Váy lụa phồng buồm võng 
Anh hai ngắc giọng lới lơ

Kén đang ươm tơ
Hàng đang đắt mối đành chờ 
Thoi giục chân đạp gấp
Ngẩn ngơ ư? 
Khối kẻ thẫn thờ 


  Nhà văn NGUYỄN HIẾU
                                     


                              


   



Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

ĐƯA EM VỀ THĂM QUÊ HƯƠNG*




                           Em có về quê lúa với anh không?
                           Cánh cò trắng chao nghiêng trên thảm lúa    
                           Sông Trà Lý dập dềnh như dải lụa
                           Ai hái dâu mê mải, nắng dần phai

                           Đôi triền sông ngút mắt những vườn cây
                           Phù sa đỏ đắp bồi cho xứ sở
                           Đất và người qua binh đao đạn lửa   
                           Lại hồi sinh như cây lúa quê mình

                           Anh dẫn em đi  thăm đất mẹ Thái Bình
                           Về Nguyên Xá - làng xưa bất khuất
                           Còn một người là phải còn bám đất
                           Một tấc không đi, nửa bước quyết chẳng rời(1)

                           Trước xe tăng chỉ có những con người
                           Giáo búp đa dám đọ cùng đại bác
                           Chỉ đòn gánh cũng xông vào lũ giặc
                           Lũy tre xanh hóa thành cả rừng chông

                           Những thôn làng, mỗi doi đất, những bến sông,
                           cánh đồng lúa đã biến thành chiến địa
                           Lòng yêu nước cũng luyện thành vũ khí
                           Thế trận nhân dân đã đè bẹp kẻ thù

                           Vẫn trung kiên hướng về Đảng, Bác Hồ
                           Vẫn son sắt niềm tin ngày chiến thắng
                           Qua giông tố, trời quê hương bừng nắng
                           Hết phong ba, quê lúa lại hồi sinh

                           Dập tắt rồi khói lửa cuộc chiến tranh
                           Biển Diêm Điền “rừng phi lao gió hát”(2)
                           Nao nức trống chèo, đêm hội xuân làng Khuốc(3)
                           Anh đón em đi theo điệu “Sắp qua cầu”(4)                                                                                                                    

                           Bãi sông Hồng xanh ngát lại nương dâu
                           Táo Thuận Vi mùa nối mùa trĩu quả
                           Anh dẫn em thăm làng xưa Nguyên Xá
                           Chú Tễu cười vui ngất ngưởng ngàn năm(5)

                           Giặc Mỹ vào, gây hấn cuộc chiến tranh
                           Trai quê lúa lại lên đường cứu nước
                           Cha ngã xuống, con vững lòng tiếp bước
                           “Thóc chẳng thiếu một cân, quân không thiếu một người (6)


                           “Ba đảm đang” em gắng sức gấp mười(7)
                           Trai làng chèo cứ vững lòng ra trận
                           Binh đoàn Lúa tự hào thay anh Thận
                           Phất cao cờ kiêu hãnh giữa đô thành(8)

                           Toàn thắng! Toàn thắng rồi, hai cuộc trường chinh
                           Tổ Quốc Hùng Vương đã nối liền một dải
                           Lúa lại hát trên cánh đồng tỉnh Thái
                           Biển lại bốn mùa vui mê mải sóng Đồng Châu(9)

                           Cầu soi gương duyên dáng mặt sông sâu
                           Trai làng lúa đón dâu về Tân Đệ(10)
                           Về Hội chèo đêm nay, em nhé
                           Ta cưới nhau trên quê lúa, Thái Bình ơi!

                                                                                    13/8/2010
                                                             Sửa lại lần 1: 30/9/2010
                                                             Sửa lại lần 2: 25/3/2012 

                                                               NGUYỄN ĐÌNH THÁI
     GHI CHÚ:
                       * Rút trong tập thơ GƯƠNG THAN LẤP LÁNH – NXB Văn học 2011
                        (1) Làng Nguyễn (Xã Nguyên Xá), huyện Đông Hưng
                        trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
                        đã rào làng kháng chiến, anh dũng chống càn với khẩu
                        hiệu nổi tiếng cả nước: “ Một bước không đi, một tấc
                        không rời”.
                        (2) Tác giả mượn lời bài hát “Nắng ấm quê hương” của
                        cố nhạc sĩ Vĩnh Cát
                        (3) Làng Khuốc (Cổ Khúc), xã Phong Châu thuộc huyện Đông Hưng, chiếng chèo nổi tiếng xứ Sơn Nam hạ, một trong bốn tứ chiếng chèo cổ Bắc bộ xưa
                        (4) Một làn điệu chèo truyền thống
                        (5) Làng Nguyễn (Nguyên Xá), huyện Đông Hưng nơi
                        phát nguyên nghệ thuật múa rối nước riêng có của nước
                        ta từ thời nhà Lý (thế kỷ thứ IX). Chú Tễu là một nhân 
                        quen thuộc của sân khấu rối nước
                        (6) Khẩu hiệu nổi tiếng của Đảng bộ và nhân dân Thái
                        Bình những năm chống Mỹ
                        (7) Tên một phong trào của phụ nữ miền Bắc thời kỳ
                        kháng chiến chống Mỹ cứu nước
                        (8) Đại tá- Anh hùng LLVTND Bùi Quang Thận, quê      
                        huyện Thái Thụy, người đầu tiên cắm cờ ở nóc Dinh Độc
                        Lập, Sài gòn trưa 30/4/1975
                        (9) Ý câu hát trong bài “Nghe tiếng trống quê hương”
                        của cố nhạc sĩ Thái Cơ (ông quê ở huyện Tiền Hải)
                        (10) Cầu Tân Đệ bắc qua sông Hồng (trước đây là phà)
                        nối liền hai tỉnh Thái Bình và tỉnh Nam Định

                        

VỚI EM*

                    


Giá em dịu dàng hơn
thì anh đâu có trách
Giá em đừng thóc mách
những việc của người ta

                                      Mỗi cây một loài hoa
                                      Mỗi người riêng một cảnh
                                      Nếu mình không thông cảm
                                      chớ nên xen lời vào

Láng giềng phải có nhau
Vui buồn nên chia sẻ
Nhưng em đừng mách lẻo
chuyện riêng tư nhà người

                                     Chuyện dở hay ở đời
                                      chắc gì ta sáng suốt
                                      Em chớ cười người trước
                                      sau thì ai khóc đây?

Ai chẳng muốn điều hay
Ai không mong điều tốt
Đời lúc cười, khi khóc
Sông khúc lở, khúc bồi

                                   Thóc mách chuyện của người
                                   ta trở nên nhỏ hẹp
                                   Hãy nói câu tốt đẹp
                                   Hãy nói lời yêu thương

                                                                       28/2/2003
                                                         Sửa lại: 26/9/2010

                                                            NGUYỄN ĐÌNH THÁI

Rút trong tập thơ KHƠI NGUỒN SUỐI THAN
NXB Văn học 2010