Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

BÀI THƠ THÁNG MƯỜI


Tôi lại về Chiến khu xưa đệ tứ
Trời Đông Triều trắng lắm một màu mây
Trầm mặc rêu phong, chùa Bắc Mã còn đây (1)
Thấp thoáng kia, bóng áo nâu đoàn du kích.

Vẳng đường thôn, tiếng ai cười khúc khích 
Đạm Thủy làng xưa, đâu dáng các anh về (2)  
Tư lệnh ơi, còn nhớ phố Mạo Khê (3)
Ất Dậu, tháng tư, anh về gây cơ sở. (4)

Tràng Bạch ơi, những ngày xưa gian khổ
Du kích Chiến khu về, đồn giặc vỡ tan
Cô gái Hổ Lao nghiêng vành nón cười duyên (5)
Em có biết nơi khai sinh Chiến khu đệ tứ. (6)

Dấu đồn giặc ở đâu, Bí Chợ (8)
Giặc Pháp kinh hoàng, vỡ trận Bô-lê-rô (9)
Cray-xăc và Ô-đa-xi-ơ (10)
Vịnh Rồng thiêng không để bay khuấy đục.

Xuân Sơn, Đại Bình, Đồng Văn, Yên Đức (11)
Uông Bí, Bình Liêu, Ba Chẽ, Cửa Ông (12)
Những tên làng, những tên đất, những chiến công
Những địa danh lưu sử vàng truyền thống

Tháng mười thu, trời trong, gió lộng
Em có về chơi Móng Cái cùng anh 
Trà Cổ chiều, cát trắng, sóng biển xanh
Mái đình cổ vẫn thi gan cùng tuế nguyệt.

Biển Hạ Long bốn mùa sóng biếc
Nhớ năm sáu tư, tháng tám, mùng năm (13)
Anh Trần, anh Tạo, Dương Văn Tân
Đã bắt gọn giặc trời An-vơ-ret. (14)

Trận địa vẫn đây, Anh hùng Đặng Bá Hát (15)
Dưới làn bom, vẫn kiêu dũng hiên ngang
Bến Hòn Gai, tàu tấp nập ăn than
Có tấn than nào máu anh nhộm thắm.

Có trận đánh nào mà không đổ máu
Anh Lộc, anh Cường, anh Bỉ, anh Lương (16)
Có trận đánh nào nửa trung đội thương vong
Nửa gánh cơm thừa, anh nuôi òa khóc.

Anh Vóc ơi, người đặc công rừng Sác
Lúc gài thuốc nổ đáy tàu, có nhớ Hạ Long
Quê hương ơi, nhớ lắm những dòng sông
Tuổi hoa niên vẫy vùng trên sóng nước.

Các anh trở về, người còn, người khuất
Một trăm hai lăm bà mẹ, nước mắt khô (17)
Chiến tranh qua đi đã tự bao giờ
Trong các Mẹ, chiến tranh còn hiện hữu.

Bao đền đài, trước thời gian không thể là vĩnh cửu
                                                                       
Tượng đài các Mẹ, các anh vạn kiếp tạc lòng dân
Đây Trường Sơn! Bạch Đằng Giang! Đây Việt
                                                                              Nam
Sông núi khí thiêng “nghìn thuở vững âu vàng”.  (18)

Có một góc trời biên ải xứ An Bang (19)
Người lính trẻ “Rọi Đèn” canh phên dậu
Có một dải biên cương yêu dấu
Tổ Quốc yên lòng, có lính trẻ Quảng Ninh.

                                                       Hạ Long 26 tháng 5/2013
                                                           NGUYỄN ĐÌNH THÁI

    CHÚ THÍCH:
(1) Chùa Bắc Mã (Đông Triều), nơi đồng chí Nguyễn Bình gặp đồng chí Hải Thanh để thống nhất lực lượng, chuẩn bị thành lập Khu căn cứ.
(2) Tại nhà đồng chí Nguyễn Kim Ngọc (làng Đạm Thủy- Đông Triều), ngày 15/7/1945, Ban lãnh đạo Khu căn cứ họp bàn và quyết định khởi nghĩa vào ngày 16/7/1945.
(3) (4) Cuối tháng 4/1945, đồng chí Nguyễn Bình (sau này là Tư lệnh Chiến khu) gặp đồng chí Hải Thanh tại nhà ông  Nguyễn Văn Đài (phố Mạo Khê) để bàn việc xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị thành lập khu căn cứ.
 (5) Du kích đánh chiếm đồn Tràng Bạch (Mạo Khê) ngày 16/7/1945.
 (6) (7) Sáng 17/7/1945, Ban Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chính thức tuyên bố thành lập Đệ tứ chiến khu (chiến khu Trần Hưng Đạo) tại đình làng Hổ Lao (Đông  Triều).
(8) Ngày 01/7/1945 du kích chiếm trại địch ở Bí Chợ (Uông Bí).
(9)  Quân dân tỉnh Quảng Yên chống trận càn Bô-lê-rô của giặc Pháp từ 28/6 đến 26/8/1952.
(10)   Quân dân Hồng Quảng đánh chiếm tàu chiến Cray-xăc và Ô-đa-xi-ơ của Pháp vào các ngày 07 và 11/9/1945.
(11)   Tên một số xã trong tỉnh được Quốc Hội tuyên dương danh hiệu “Anh hùng thời kỳ. 
(12)         Tên một số huyện trong tỉnh được Quốc Hội tuyên dương danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” qua các thời kỳ.
(13) (14)   Trong trận đầu của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, quân dân thị xã Hòn Gai đã cùng quân dân các tỉnh Quảng Bình, Nghệ  An, Thanh Hóa bắn rơi 08 máy bay Mỹ trong ngày 05/8/1964. Các đồng chí Tạo, Trần, Tân đã bắt sống tên trung úy giặc lái An-vơ-ret khi hắn nhảy dù từ chiếc máy bay F.4H bị bắn cháy xuống vịnh Hạ Long. Hắn là tên giặc lái đầu tiên bị bắt và bị giam lâu nhất cho đến năm 1973 mới được trao trả.
(15) Anh hùng Liệt sỹ Đặng Bá Hát, Đại đội trưởng đại đội pháo phòng không 37mm, thuộc tiểu đoàn tự vệ xí nghiệp Bến Hòn Gai. Anh hy sinh ngày 12/7/1972 khi đang chỉ huy đại đội bảo vệ phà Bãi Cháy trên trận địa +102. Anh hy sinh trong khi tay vẫn nắm chắc cờ lệnh. 
(16) *Anh hùng LLVTND Đỗ Viết Cường.
(17) *Các Anh hùng Liệt sỹ Đào Phúc Lộc, Lê Lương, Đỗ Chu Bỉ.
    Tính đến 3/2012 toàn tỉnh Quảng Ninh có 125 bà mẹ Liệt sỹ được Quốc Hội phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam Anh hùng”. Hiện 07 mẹ còn sống.
(18) Một ý trong câu thơ của vua Trần Nhân Tông:
                                  “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
                                  Non sông nghìn thuở vững âu vàng”
                                  “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
                                  Sơn hà thiên cổ điện kim lâu”
(19) An Bang: tên chỉ vùng đất Hải Ninh, Quảng Yên thời nhà Hậu Lê.
(20)   *Rọi Đèn (Truyền Đăng) tên gọi cũ của núi Bài Thơ bây giờ, nơi Thi sỹ - Hoàng Đế Lê Thánh Tông trong một chuyến tuần du xứ An Bang đã ghé thuyền Rồng và Ngự bút đề bài thơ 56 chữ nổi tiếng vào thế kỷ XV.

         *Phên dậu: (Rào chắn) từ cổ chỉ biên giới, biên cương.

Không có nhận xét nào: