CÓ CHÚ THƯƠNG BINH NÀO CÒN SỐNG NHẬN RA CHỮ VIẾT CỦA MÌNH KHÔNG?
(Bài viết trên Fb của nhà văn Nguyễn Quang Vinh)
Nếu bạn đi trên đường Hồ Chí Minh, đoạn qua huyện miền núi Minh Hóa (Quảng Bình), khi tới giáp ranh xã Hóa Tiến, bạn sẽ nhìn thấy một bảng chỉ dẫn ghi rằng: tại vùng núi đá thôn Yên Thành, xã Hóa tiến là Sở chỉ huy của mặt trân 559 Trường Sơn những năm chống Mỹ.
Tôi luồn rừng theo sát người dẫn đường tên là Hòa. Anh đã treo người giữa lưng chừng vách đá tai mèo, nói vọng xuống:" Cẩn thận nghe. Anh bám lấy từng mấu đá mà trèo lên miệng hang, lớ ngớ trượt chân là ngã vỡ mặt đó". Tôi mắm môi mắm lợi đu người lên từng vách đá. Quá nhọc nhằn. Nhưng mà tại sao lại nhọc nhằn thế này, ngày ấy, đường thế này thì làm sao bộ đội, thanh niên xung phong đưa được thương binh vô hang. Hòa nói:" Để đuaa thuaơng binh vô hang quân y, người ta làm những cái thang gỗ dựng ngược, thang này nối thang kia, đi dễ hơn bây giờ"
Cửa hang đá thấp tè. Nhưng vào trong thì rộng rãi. Hang đá hóa ra lại không phải bắt đầu từ chân núi mà treo ngược giữa lưng chừng dốc. Hòa kéo mấy cây nứa khô, đốt lên thành đuốc dẫn tôi vào trong. Quá khứ không xa lạ nữa, mọi kỷ vậth đang còn ở trước mắt: đôi dép nhựa bốn quai dành cho bộ đội nữ, cho thanh niên xung phong. Những cục pin khô. Những đôi dép cao su đã mòn vẹt. cả cái mũ cối đã mục nát. Hình như còn cả những mẫu vải quân phục. Một cái xẻng đã cháy cán. Một cối đá giã thuốc. Cối đá được đục ngay trên một phiến đá. Hòa nói:" Bà con kể, mấy o y tá thừơng đâm thuốc nam ở cối đá này rồi sắc thuốc cho thương binh uống. Xa hơn một chút, ngay trong ngách hang, vòm đá đen nhẻm muội than. Đó chính là gian bếp. Trèo lên bậc đá cao, tới một vòm hang rông và thấp, đó là nơi nghỉ ngơi cho các thương binh nhẹ hơn. Đây là hang đá quân y. Ngày ấy người ta gọi thế. Tôi đi tới vòm hang dành cho các thương binh nặng. Qua ánh đuốc, tôi ngẩn người đọc những dòng chữ viết một cách khó nhọc trên vách đá. Có dòng chữ viết bằng cách dùng vật cứng khoét sâu chữ vào đá. Lại có dòng chữ viết bằng màu đỏ trên đá, màu vẫn đỏ tươi. Các thương binh viết bằng sơn đỏ.
May mắn, tôi lại gặp được nhân chứng của thời chiến tranh khốc liệt ấy. Bà tên là Đinh Thị Y, nhà ở ngay chân núi đá có những hang đá một thời. Bà là bệnh binh nặng. Ngôi nhà nhỏ, chỉ đi chừng nửa giờ là vào hang đá y tá.
Bà Y kể: " 17 tuổi tui vô thanh niên xung phong. Tui nhớ, ngày tui nhập ngũ là tháng 11 năm 1967. Tui ở Binh trạm 12, đội điều trị 14, thuộc bệnh viện 14 đóng trong hang đá y tá. Phụ trách bệnh viện trong hang đá ngày đó là bác sĩ anh hùng quân đội Lê Đính. Đừng có hỏi ngày đó ác liệt như răng. Đừng có hỏi ngày đó bộ đội hy sinh đổ máu như răng. Đừng có hỏi ngày đó gian khổ, thiếu thốn, cực nhọc ra răng nữa. Ghê gớm lắm. Khổ tợn lắm". Chị Y nói, ngày đó, làm chi có chuyện các núi đá vôi này xanh rì như hôm nay. Tất cả đều bị bom Mỹ đánh phá trọc lóc, không còn một bóng cây nào. Ngày, nắng nóng chói mắt cháy da, đêm sương lạnh buốt xương. Các nữ y tá và thanh niên xung phong hàng ngày lo đi gùi gạo, đi cáng thương binh tại các tọa độ lửa trên đường Trường Sơn ở các trọng điểm Trà Ang, Mụ Gịa, Cổng Trời, Khe Ve, La Trọng, Bãi Dinh. Thương binh nhiều lắm. Bộ đội cao xạ, thanh niên xung phong, lái xe, bộ đội xăng dầu, bị thương, hy sinh hàng ngày, nhiều lắm, không nhớ nỗi.
" Tui nhớ, có những thương binh rất nặng, cần phải cấp cứu ngay. Nhưng hang đá tối om, máy bay quần đảo, không dám thắp đèn sáng. Nếu khi tiêm cho thương binh mà thuốc tiêm chảy, là biết thương binh còn sống, còn ống tiêm bị tắt giữa chừng tức là chết. Có thương binh tui không nhớ tên, bị thương vào sọ não, trước khi chết, đưa cho tui lá thư anh ấy gửi cho vợ ở quê. Tui cầm lá thư đứng khóc cả đêm. Thương lắm. Chú coi. Nghĩa trang dã chiến của mặt trận lúc đầu chỉ là 1 nghĩa trang, sau rồi thêm nghĩa trang số 2, số 3, số 4, số 5, số 6. Có ngày hy sinh 39 đồng chí, phải huy động cả dân quân xã ra đào huyệt".
Có lẽ phải dựng tại đây một tượng đài. Có lẽ phải làm một việc gì đó cho vùng đất này bớt hưu quạnh. Có lẽ phải đặt một dấu ấn nào đó cho nơi xa xôi này để mọi thế hệ không bị lãng quên cái nơi mà cha ông mình đã sống, chiến đấu vô cùng anh dũng để bảo đảm cho nhịp sống của đường Trường Sơn huyền thoại.
----
Nhân chứng đây- chú thích theo thứ tự:
-Ảnh 1,2 dấu tích chữ viết của các chương binh nặng trong Hang Quân Y
-Cựu y tá tại Hang Quân Y: Bà Đinh Thị Y
-Thung lũng dưới chân núi đá có Hang Quân Y.
Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013
ĐÃ TỪNG CÓ MỘT TRANG SỬ NHƯ THẾ
Nhà văn Nguyễn Quang Thân từ thành phố Hồ Chí Minh có bài viết hay. Xin giới thiệu lại bài viết của ông đăng trên BVN
Đã từng có một trang sử như thế!
Nguyễn Quang Thân
Trà dư tửu hậu
Nhìn lại sử nhà Lê, mặc dù Lê Nhân Tông, ông vua thứ ba sau Lê Thái Tổ cũng là một vua hiền nhưng lại không đủ tôi sáng. Tính ra từ Hội Thề Đông Quan chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của quân Minh đến khi Lê Nhân Tông bị giết bởi người anh ruột trong một cuộc đảo chính tàn bạo mới chỉ có 32 năm! Hào quang cuộc kháng chiến chống giặc Minh và hai đời thịnh trị “Thái Tổ, Thái Tông, con bế con bồng con dắt con mang” không hãm được đà xuống dốc của một triều đại, nếu không chấn hưng thì xem chừng khó chữa.
Sau khởi nghĩa của Lê Thái Tổ đất nước được phục hưng, bờ cõi được giữ vững. Nhưng 32 năm gọi là thịnh trị thời “nguyên phong” ấy cũng là những trang sử mang nét đặc thù “hậu chiến”, đẫm máu công thần và chính sự tha hóa. Bài ký Trung hưng viết năm Quang Thuận (niên hiệu Lê Thánh Tông từ 1460 – 1469) được Đại Việt sử ký toàn thư chép lại đã tổng kết một cách sinh động “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” ấy dưới thời Lê Nhân Tông:
“Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc Lê Khuyển như thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai. Việc văn giáo lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy vào chỗ nhàn, phường dốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng. Tể thần như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa. Bán quan mua kiện, ưa giàu ghét nghèo. Hiền tài là rường cột của triều đình mà sạch không như quét đất. Văn chương là khí vận của nhà nước mà im ắng tựa cỏ khô. Bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử. Lòng người sôi động, đường sá xôn xao. Bọn tặc thần Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng, Ngô Trang và phương chó lợn hơn 300 đứa, nửa đêm dám cả gan bắc thang trèo tường lẻn vào như là vào chỗ không người. Vua và Hoàng thái hậu đều bị hại, thương thay!” (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa Thông tin in lần 3, tập II, trang 216).
Nói theo ngôn ngữ ngày nay cho dễ hiểu, trong cái xã hội được coi là “thái bình” ấy của nước ta cuối triều Lê Nhân Tông có đủ các loại tệ nạn. Văn hóa, đạo đức xuống cấp tệ hại. Kỷ cương phép nước rối mù… Tình trạng ê chề này không phải huyên truyền mà đã được ghi vào chính sử.
Xã hội nhiễu nhương mất tám tháng dưới triều vua đảo chính Nghi Dân. Nhưng công thần và trung thần Lam Sơn vẫn còn đó. Và những người anh hùng Lam Sơn một thuở như Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã phục hưng được kỷ cương, đưa được một minh quân bậc nhất lịch sử là Lê Thánh Tông lên ngôi báu. Nhân dân và đất nước luôn có cơ hội trung hưng. Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, giữ gìn được biên cương xã tắc với câu răn để đời: “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để lại”. Nhà vua cũng chăm lo phục hưng kỷ cương phép nước và thuần phong mỹ tục cũng như sự nghiệp văn học nước nhà. 24 điều răn của Lê Thánh Tông quảng bá cho dân tuân theo cùng với việc cho hoàn thiện bộ Lê triều hình luật khởi thảo từ thời Lê Thái Tổ, đã đưa một xã hội nhiễu nhương vào nền nếp thịnh trị. Đặc biệt, hòa bình được thiết lập lâu dài 360 năm cho đến ngày Tôn Sĩ Nghị kéo quân qua biên ải (1428 – 1788), kẻ thù phương Bắc chỉ biết ôm hận Lam Sơn mà không dám nhòm ngó giang sơn Đại Việt. Chưa có triều đại nào giữ được giấc mộng hòa bình dài như thế trước kẻ xâm lược phương Bắc.
Đã từng có một trang sử như thế!
Nguyễn Quang Thân
Trà dư tửu hậu
Nhìn lại sử nhà Lê, mặc dù Lê Nhân Tông, ông vua thứ ba sau Lê Thái Tổ cũng là một vua hiền nhưng lại không đủ tôi sáng. Tính ra từ Hội Thề Đông Quan chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của quân Minh đến khi Lê Nhân Tông bị giết bởi người anh ruột trong một cuộc đảo chính tàn bạo mới chỉ có 32 năm! Hào quang cuộc kháng chiến chống giặc Minh và hai đời thịnh trị “Thái Tổ, Thái Tông, con bế con bồng con dắt con mang” không hãm được đà xuống dốc của một triều đại, nếu không chấn hưng thì xem chừng khó chữa.
Sau khởi nghĩa của Lê Thái Tổ đất nước được phục hưng, bờ cõi được giữ vững. Nhưng 32 năm gọi là thịnh trị thời “nguyên phong” ấy cũng là những trang sử mang nét đặc thù “hậu chiến”, đẫm máu công thần và chính sự tha hóa. Bài ký Trung hưng viết năm Quang Thuận (niên hiệu Lê Thánh Tông từ 1460 – 1469) được Đại Việt sử ký toàn thư chép lại đã tổng kết một cách sinh động “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” ấy dưới thời Lê Nhân Tông:
“Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc Lê Khuyển như thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai. Việc văn giáo lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy vào chỗ nhàn, phường dốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng. Tể thần như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa. Bán quan mua kiện, ưa giàu ghét nghèo. Hiền tài là rường cột của triều đình mà sạch không như quét đất. Văn chương là khí vận của nhà nước mà im ắng tựa cỏ khô. Bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử. Lòng người sôi động, đường sá xôn xao. Bọn tặc thần Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng, Ngô Trang và phương chó lợn hơn 300 đứa, nửa đêm dám cả gan bắc thang trèo tường lẻn vào như là vào chỗ không người. Vua và Hoàng thái hậu đều bị hại, thương thay!” (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa Thông tin in lần 3, tập II, trang 216).
Nói theo ngôn ngữ ngày nay cho dễ hiểu, trong cái xã hội được coi là “thái bình” ấy của nước ta cuối triều Lê Nhân Tông có đủ các loại tệ nạn. Văn hóa, đạo đức xuống cấp tệ hại. Kỷ cương phép nước rối mù… Tình trạng ê chề này không phải huyên truyền mà đã được ghi vào chính sử.
Xã hội nhiễu nhương mất tám tháng dưới triều vua đảo chính Nghi Dân. Nhưng công thần và trung thần Lam Sơn vẫn còn đó. Và những người anh hùng Lam Sơn một thuở như Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã phục hưng được kỷ cương, đưa được một minh quân bậc nhất lịch sử là Lê Thánh Tông lên ngôi báu. Nhân dân và đất nước luôn có cơ hội trung hưng. Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, giữ gìn được biên cương xã tắc với câu răn để đời: “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để lại”. Nhà vua cũng chăm lo phục hưng kỷ cương phép nước và thuần phong mỹ tục cũng như sự nghiệp văn học nước nhà. 24 điều răn của Lê Thánh Tông quảng bá cho dân tuân theo cùng với việc cho hoàn thiện bộ Lê triều hình luật khởi thảo từ thời Lê Thái Tổ, đã đưa một xã hội nhiễu nhương vào nền nếp thịnh trị. Đặc biệt, hòa bình được thiết lập lâu dài 360 năm cho đến ngày Tôn Sĩ Nghị kéo quân qua biên ải (1428 – 1788), kẻ thù phương Bắc chỉ biết ôm hận Lam Sơn mà không dám nhòm ngó giang sơn Đại Việt. Chưa có triều đại nào giữ được giấc mộng hòa bình dài như thế trước kẻ xâm lược phương Bắc.
Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013
NHỮNG NHÀ BÁO CAN ĐẢM VÀ TRUNG THỰC
"Một thằng viết báo trung thực cần lắm một Tổng biên tập trung thực"!
Làm thằng quân, khen sếp mình trên Fb mình là PHÔ. Nhưng phải công nhận, Nguyễn Quanh Vinh nói đúng.
Gần đây, không ít người khen những bài viết trên BLOG của mình và Lê Chân Nhân là trung thực, dũng cảm... Mình phải giải thích rõ rằng ko phải chúng tôi dũng cảm mà TBT tôi dũng cảm. Lý do, TBT là người quyết định. Nếu ông ấy không bật đèn, duyệt cho đi thì hay đến mấy, dũng cảm đến mấy cũng ném vào sọt rác.
" Một thằng viết báo trung thực cần lắm một Tổng biên tập trung thực"! Một nhận xét chuẩn không cần chỉnh.
Mình sẽ viết về chuyện này sau khi mình hoặc TBT mình nghỉ hưu!
He!

TẠI SAO LẠI VIẾT CÁC NỮ ANH HÙNG ĐI ĂN MÀY?
Nước Việt mình, quá biết về đại đội pháo binh xã Ngư Thủy tỉnh Quảng Bình. Đó là một đại đội pháo binh nữ đầu tiên hồi miền Bắc chống Mỹ. Đại đội được tuyên dương anh hùng. Thế giới biết đến họ từ phim tài liệu rất nổi tiếng của đạo diễn NSND Lê Mạnh Thích và NSƯT Lò Minh:Những cô gái Ngư Thủy.
Mấy chục năm sau, anh Lò Minh và anh Lê Mạnh Thích trở lại Ngư Thủy làm tiếp phim “Trở lại Ngư Thủy”, phản ánh cuộc sống còn biết bao gian khó của các o nữ pháo thủ. Rồi tiếng vang dội lên. Tất cả các o được mời ra Hà Nội chơi. Được nhận quà. Được nhận tình cảm ấm áp của biết bao cơ quan, người dân, lãnh đạo…
Câu chuyện tưởng thế là ngon lành, là đời sống các o ổn định.
Ai ngờ, mấy năm sau mình về, gặp các o, chỉ ròng nước mắt và nước mắt.
Hơn ba chục o không có nhà ở, hay chính xác là đang ở trong những căn lều rách nát, đồ đạc không có, cái áo lành mang cũng không có, bếp lạnh tanh, nhìn cay đắng.
Mình hỏi, sao các o thành tích như vậy, khổ như vậy lại không nằm trong danh sách được làm nhà tình thương, nhà tình nghĩa.
Các o lắc đầu, không biết.
Một o nói, là vì huyện thấy các o được mời ra Hà Nội nhận nhiều quà, nên nghĩ các o nhiều tiền rồi, không cho vào danh sách làm nhà tình nghĩa, tình thương nữa.
Mình hỏi, đợt ấy, các o được nhiều quà, nhiều tiền không?
Các co nói, nhận nhiều phong bì mừng, nhưng quy đổi lại, tiền mặt mỗi người được hơn 3 triệu, có thêm cái ti vi, ti vi mang về thì không có tiền trả tiền điện hàng tháng nên bán rồi. Tiền tiêu vài tháng mua gạo, mắm, hết.
Trong số các o, đa phần là không có chồng, không nhà cửa, không nghề nghiệp. Quê các o thì ở bãi ngang, chỉ kiếm sống bằng những con thuyền nhỏ, cả làng đều nghèo.
Một số o không biết có nghề gì làm thì đi ăn mày. Ăn mày trong làng có, ngoài làng có.
Nói chung là tình cảnh của những nữ anh hùng pháo thủ quá thảm hại.
Mình viết phóng sự in trên Lao Động.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc được, ghi thư về huyện Lệ Thủy, về tỉnh Quảng Bình, tỏ ý không hài lòng về việc địa phương lại bỏ rơi các o pháo thủ anh hùng này.
Thế là làn sóng phản ứng từ địa phương rất khủng khiếp.
Lãnh đạo địa phương cương quyết phản bác chuyện một số o đi ăn mày.
Tại sao lại ăn mày? Để cho các o của một đơn vị anh hùng đi ăn mày? Quan điểm đâu? Bản chất xã hội tốt đẹp đâu? Đảng lãnh đạo đâu? Họ hỏi thế nhưng chính các o lại đi ăn mày.
Anh Phạm Huy Hoàn, Tổng biên tập báo Lao Động gặp mình:
-Gay rồi đấy Vinh. Viết về các nữ pháo thủ của một đơn vị là anh hùng mà còn có người ăn mày. Họ phản ứng dữ dội. Cậu khẳng định lại xem, có ăn mày chứ?
Mình nói:
-Hoặc là họ ăn mày, hoặc là em ăn mày, anh lo gì.
Anh Hoàn nói:
-Vinh về lại, khẳng định bằng một bài nữa, nếu thực sự không ai ăn mày thì tao và mày ăn mày. Tiên sư chúng nó quan liêu.
Mình về. Lúc ấy trên báo Văn Nghệ in một bài của tác giả Quảng Bình phản bác lại báo Lao Động, rằng, đời sống mấy o Ngư Thủy rất được quan tâm, có khó khăn nhưng không ăn mày.
Mình về lại gặp các o. Các o líu lo kể vui lắm. Đoàn này về, đoàn khác về, ai bảo các o nói đi ăn mày, ai đi ăn mày? Tại sao ăn mày?
Các o nói, đây, o này đi mày, o này đi ăn mày, o này đi ăn mày, không nghề nghiệp, không chồng con, nghèo quá, khổ quá, không có chi ăn thì đi ăn mày có chi xấu? Bọn tui đi ăn mày có chi xấu? Có chi xấu? Ăn mày thì nói với nhà báo là ăn mày có chi xấu, có chi sai?
Mấy ông chịu, ấm ức ra về.
Rồi mình cũng gặp lãnh đạo chính quyền. Họ cũng thừa nhận là có một số o đi ăn mày thật, nhưng lại trách, đúng là có một số o đi ăn mày, nhưng sao anh lại viết là ăn mày?
He he
Sau hai bài viết của mình, các đơn vị, các ngành, cá nhân ào ào ủng hộ.
Sự thật về cuộc sống quá mức khổ cực của các o pháo binh Ngư Thủy đã không thể che giấu.
Trong vòng 6 tháng, báo Lao Động đã phối hợp với nhiều đơn vị ủng hộ, làm cho các o hơn ba chục ngôi nhà khang trang, có bàn ghế, giường tủ đàng hoàng.
Các o còn có tiền mua bò, mua lợn, đời sống dần dần ổn định.
Mỗi lần mình về, mấy o chạy ra từ đầu làng, những bàn chân chạy cuống quýt trên cát, ôm lấy mình, chú Vinh về, chú Vinh về, rồi các o kéo vô nhà, bắt ăn cơm, bắt ăn mực, ríu rít, rất cảm động.
Nếu hồi đó mình hèn, cứ viết các o khó khăn chung chung, không dám dùng hai chữ ăn mày, e các o không được như hôm nay.
Lại nhớ, anh Hoàn Tổng biên tập nói:
-Họ hết ăn mày rồi nhé, cuộc sống tốt rồi nhé, tao thưởng mày 500 ngàn.
Mình yêu quý anh Phạm Huy Hoàn vô cùng. Một thằng viết báo trung thực cần lắm một Tổng biên tập trung thực.
Nước Việt mình, quá biết về đại đội pháo binh xã Ngư Thủy tỉnh Quảng Bình. Đó là một đại đội pháo binh nữ đầu tiên hồi miền Bắc chống Mỹ. Đại đội được tuyên dương anh hùng. Thế giới biết đến họ từ phim tài liệu rất nổi tiếng của đạo diễn NSND Lê Mạnh Thích và NSƯT Lò Minh:Những cô gái Ngư Thủy.
Mấy chục năm sau, anh Lò Minh và anh Lê Mạnh Thích trở lại Ngư Thủy làm tiếp phim “Trở lại Ngư Thủy”, phản ánh cuộc sống còn biết bao gian khó của các o nữ pháo thủ. Rồi tiếng vang dội lên. Tất cả các o được mời ra Hà Nội chơi. Được nhận quà. Được nhận tình cảm ấm áp của biết bao cơ quan, người dân, lãnh đạo…
Câu chuyện tưởng thế là ngon lành, là đời sống các o ổn định.
Ai ngờ, mấy năm sau mình về, gặp các o, chỉ ròng nước mắt và nước mắt.
Hơn ba chục o không có nhà ở, hay chính xác là đang ở trong những căn lều rách nát, đồ đạc không có, cái áo lành mang cũng không có, bếp lạnh tanh, nhìn cay đắng.
Mình hỏi, sao các o thành tích như vậy, khổ như vậy lại không nằm trong danh sách được làm nhà tình thương, nhà tình nghĩa.
Các o lắc đầu, không biết.
Một o nói, là vì huyện thấy các o được mời ra Hà Nội nhận nhiều quà, nên nghĩ các o nhiều tiền rồi, không cho vào danh sách làm nhà tình nghĩa, tình thương nữa.
Mình hỏi, đợt ấy, các o được nhiều quà, nhiều tiền không?
Các co nói, nhận nhiều phong bì mừng, nhưng quy đổi lại, tiền mặt mỗi người được hơn 3 triệu, có thêm cái ti vi, ti vi mang về thì không có tiền trả tiền điện hàng tháng nên bán rồi. Tiền tiêu vài tháng mua gạo, mắm, hết.
Trong số các o, đa phần là không có chồng, không nhà cửa, không nghề nghiệp. Quê các o thì ở bãi ngang, chỉ kiếm sống bằng những con thuyền nhỏ, cả làng đều nghèo.
Một số o không biết có nghề gì làm thì đi ăn mày. Ăn mày trong làng có, ngoài làng có.
Nói chung là tình cảnh của những nữ anh hùng pháo thủ quá thảm hại.
Mình viết phóng sự in trên Lao Động.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc được, ghi thư về huyện Lệ Thủy, về tỉnh Quảng Bình, tỏ ý không hài lòng về việc địa phương lại bỏ rơi các o pháo thủ anh hùng này.
Thế là làn sóng phản ứng từ địa phương rất khủng khiếp.
Lãnh đạo địa phương cương quyết phản bác chuyện một số o đi ăn mày.
Tại sao lại ăn mày? Để cho các o của một đơn vị anh hùng đi ăn mày? Quan điểm đâu? Bản chất xã hội tốt đẹp đâu? Đảng lãnh đạo đâu? Họ hỏi thế nhưng chính các o lại đi ăn mày.
Anh Phạm Huy Hoàn, Tổng biên tập báo Lao Động gặp mình:
-Gay rồi đấy Vinh. Viết về các nữ pháo thủ của một đơn vị là anh hùng mà còn có người ăn mày. Họ phản ứng dữ dội. Cậu khẳng định lại xem, có ăn mày chứ?
Mình nói:
-Hoặc là họ ăn mày, hoặc là em ăn mày, anh lo gì.
Anh Hoàn nói:
-Vinh về lại, khẳng định bằng một bài nữa, nếu thực sự không ai ăn mày thì tao và mày ăn mày. Tiên sư chúng nó quan liêu.
Mình về. Lúc ấy trên báo Văn Nghệ in một bài của tác giả Quảng Bình phản bác lại báo Lao Động, rằng, đời sống mấy o Ngư Thủy rất được quan tâm, có khó khăn nhưng không ăn mày.
Mình về lại gặp các o. Các o líu lo kể vui lắm. Đoàn này về, đoàn khác về, ai bảo các o nói đi ăn mày, ai đi ăn mày? Tại sao ăn mày?
Các o nói, đây, o này đi mày, o này đi ăn mày, o này đi ăn mày, không nghề nghiệp, không chồng con, nghèo quá, khổ quá, không có chi ăn thì đi ăn mày có chi xấu? Bọn tui đi ăn mày có chi xấu? Có chi xấu? Ăn mày thì nói với nhà báo là ăn mày có chi xấu, có chi sai?
Mấy ông chịu, ấm ức ra về.
Rồi mình cũng gặp lãnh đạo chính quyền. Họ cũng thừa nhận là có một số o đi ăn mày thật, nhưng lại trách, đúng là có một số o đi ăn mày, nhưng sao anh lại viết là ăn mày?
He he
Sau hai bài viết của mình, các đơn vị, các ngành, cá nhân ào ào ủng hộ.
Sự thật về cuộc sống quá mức khổ cực của các o pháo binh Ngư Thủy đã không thể che giấu.
Trong vòng 6 tháng, báo Lao Động đã phối hợp với nhiều đơn vị ủng hộ, làm cho các o hơn ba chục ngôi nhà khang trang, có bàn ghế, giường tủ đàng hoàng.
Các o còn có tiền mua bò, mua lợn, đời sống dần dần ổn định.
Mỗi lần mình về, mấy o chạy ra từ đầu làng, những bàn chân chạy cuống quýt trên cát, ôm lấy mình, chú Vinh về, chú Vinh về, rồi các o kéo vô nhà, bắt ăn cơm, bắt ăn mực, ríu rít, rất cảm động.
Nếu hồi đó mình hèn, cứ viết các o khó khăn chung chung, không dám dùng hai chữ ăn mày, e các o không được như hôm nay.
Lại nhớ, anh Hoàn Tổng biên tập nói:
-Họ hết ăn mày rồi nhé, cuộc sống tốt rồi nhé, tao thưởng mày 500 ngàn.
Mình yêu quý anh Phạm Huy Hoàn vô cùng. Một thằng viết báo trung thực cần lắm một Tổng biên tập trung thực.
-------------
Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013
LỖI HẸN BẰNG LĂNG
Nhà thơ Vương Trọng, quân nhân đang tại ngũ Hoàng Đồng Hới cùng tôi, CCB Nguyễn Đình Thái xin thắp nén hương tưởng nhớ các Liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc. Bài thơ là của nhà thơ Vương Trọng. Bài viết là của quân nhân Hoàng Đồng Hới (Nick Fb: Xóm Rú). Tôi xin trân trọng gửi tới độc giả bài viết của đồng chí Hoàng Đồng Hới và bài thơ của nhà thơ Vương Trọng. Ngày kia 27/7 là Ngày Thương binh - Liệt sĩ. Nhân dân ta, non sông đất nước ta, những đồng đội, những CCB chúng ta sẽ tưởng niệm các anh trong niềm thương nỗi nhớ khôn cùng
LỖI HẸN BẰNG LĂNG TÍM
Giữa đỉnh mùa mưa, tầm tã trắng trời. Sáng nay chợt hửng, mình lại ghé thăm các anh chị. Nghĩa trang Liệt sĩ Đức Cơ nay được chỉnh trang quy cũ, khang trang. Cây hoa Bằng Lăng nhỏ và bài thơ “Lỗi hẹn Bằng Lăng tím” của bác Vương Trọng kề bên mộ chị Hoàng Thị Hoa không còn nữa, cảm giác thất vọng kiếm tìm cho mình nỗi nhớ nôn nao. Ngồi bệt bên thềm với bao câu chuyện ùa về, tất cả qua lời kể mà tâm trạng như người trong cuộc vừa mới hôm qua.
Còn đó những ngày sau giải phóng. Chuyện về các Trung đoàn làm kinh tế từ miền Bắc xa xôi vào khai hoang xóa đói nghèo cho Tây Nguyên như vẫn còn bên tai. Ngày nối ngày, tháng tiếp tháng và năm lại năm, tuổi thanh xuân của các anh chị lấm lem đất đỏ, bom mìn. Thiếu lương thực, quần áo, thuốc men, nhiều trường hợp hy sinh vì Pôn Pốt, Fulro, vì sốt rét cùng bao cái chết bất ngờ như lũ, lốc treo tay. Đến bây giờ có mấy ai hay, biết bao cô gái đôi mươi của đồng quê chiêm trũng nằm lại nơi này, đổi cho những rừng cao su bạt ngàn xanh thẳm của hôm nay là bao linh hồn mãi mãi quây quần chốn đây giữa nhớ nhung vời vợi cố hương. Hẳn mai sau mấy ai còn nhớ “ông già Tháo”, vị phó tư lệnh già nua tay nắm vắt cơm khô ôm gốc cao su rũ lá mà mái đầu bạc phơ rung từng chặp khóc tiếc cho công sức chiến sĩ mình. Những con người như thế, như “già Tháo”, như bao nam nữ chiến sĩ của ông sẽ là huyền thoại, một huyền thoại mang hơi thở cuộc sống đọng trong lòng bao tiếng nói lương tri.
Nhắc đến “Lỗi hẹn Bằng Lăng tím” của Vương Trọng lại nhớ về tất cả, lại thương nhớ đến nao lòng với chị Hoàng Thị Hoa, người thiếu nữ của làng quê Thượng Tiết - Đại Hưng - Mỹ Đức - Hà Tây đã nằm xuống khi tuổi đời mới chớm đôi mươi, trên môi vẫn mấp máy một lời sau cuối “Mẹ ơi, mẹ!”
"....Nhớ lại lần em trốn giấc nghỉ trưa vượt qua khu rừng khộp
Để hái cành hoa tím em yêu
Nhưng xa quá, chẳng thể nào đến được
Em chạy về nhanh cho kịp buổi làm chiều.
Hoa bằng lăng, lời trối trăn em nhắc
Đồng đội nhìn nhau, khóc
Rồi khóc cúi nhìn em
Tháng tám rồi, mùa hoa không còn nữa
Chỉ có đây, một chùm quả nhỏ
Em cầm mân mê, mân mê ...rồi tắt thở.
Chỉ còn một tháng thôi
Em được ra quân về với mẹ
Thế mà không thể
Hoa ơi!"
--------------------------------------------------------------------------
LỖI HẸN BẰNG LĂNG TÍM
(Chư Prông 2007 - Thân tặng Đại tá Trần Văn Khanh)
Ba chục năm rồi em nằm lại Tây Nguyên
Nghĩa trang Đức Cơ chang chang bia nắng
Khói hương nhẹ, nước mắt người thì nặng
Tan trời cao
Thấm đất sâu
Em nằm đây mà ta quá xa nhau
Gọi không thưa, nhìn không thấu
Đất ôm em đỏ tươi màu máu
Mà mộ bia trắng đến rợn người
Anh đứng lặng lần về ký ức.
Một ngày đầu mùa mưa.
Đất Chưprông, Đức Cơ
Xôn xao đón mấy trung đoàn lính mới
Có ngót ngàn lính nữ Hà Tây
Làm trẻ trung cả núi rừng này
Quân trang mới, tiếng nói cười tươi rói
Ríu rít hỏi nhau qua thùng xe tải:
- Đâu hoa Pơ lang?
- Đâu chim Chơ rao, Pơ tốc?
- Đâu nào, hoa tím bằng lăng?
Đỡ nhau xuống từ xe Gas, xe Zin
Những đôi má bầu bầu dưới vành mũ cối
Theo tiếng còi, xếp hàng từng đại đội.
Bữa ăn đầu tiên tù mù đèn đóm
Từng mâm
Ngồi xổm
Bãi hoang
Giấc ngủ đầu tiên thấm hơi rừng
Nhớ nhà trùm chăn, thút thít
Mắt đỏ, sớm mai thức
Quê mình biết phía nào trông?
Ngơ ngơ, ngác ngác
Điệp trùng bốn phía rừng vây
Rừng thì nhiều, loi thoi vài ngọn núi
Khác núi Chùa Hương, chẳng giống Ba Vì
Dáng cây lạ, lạ từ màu đất
Hệt như son đỏ quạch dép, giày
Tóc đen dài, da em mịn trắng
Sống thế nào với núi rừng đây?
Ba chục năm rồi em nằm lại Tây Nguyên
Nghĩa trang Đức Cơ chang chang bia nắng
Khói hương nhẹ, nước mắt người thì nặng
Ơi Hoa, ơi Hồng...
Tên các em nhoà đi trong nắng
Hiện lên cánh rừng khai hoang
Cao su già, hai em một gốc
Rễ cây to, tay em thì nhỏ
Gỗ cây cứng, mà tay em mềm
Quê nhà chỉ quen việc nhẹ
Làm thế nào kham nổi hỡi em?
Xắn tay chặt, vẫn cánh tay con gái
Cong người bẩy, vẫn eo thon con gái
Sức mạnh tìm đâu ra?
Bố ở xa, em trai ở xa
Đồng đội nam cũng chẳng ở gần
Có ai đâu mà cậy.
Mồ hôi trơn cán búa công binh
Mồ hôi rơi thấm đất bazan
Phá sản Trần Lệ Xuân để lại
Trơ ra như đá núi
Biết hạt giống chờ mùa gieo vãi
Bazan chờ mùa xanh
Gốc cây già vẫn bám đất trụ lại
Thương em bàn tay rộp phồng
Quấn dẻ mười ngón mà đào, mà chặt
Em xoay xở vẹo lưng, tức ngực
Những gốc cây định mức
Vẫn lầm lỳ thách thức
Trong mồ hôi, nước mắt
Trong nắng đổ, mưa rơi
Nhớ lại những ngày thương lắm em ơi!
Ba mươi năm rồi em về với đất
Chưprông còn nhắc
Trận mưa nghiêng ngả rừng khuya
Tăng tích nước trút vào đầy võng
Như nước cả trời
Trút xuống một mình em
áo quần, tóc tai như ngâm, như tắm
Võng bạt tụt dây
Em lăn xuống đất
Làm bạn em chợt thức
Trước cười
Sau khóc
Thương em co ro chịu rét
Giữa rừng mưa không có áo quần thay
Nhen lửa sưởi, khói nhoè củi ướt
Em đứng run, răng va nhau cầm cập
Bỗng nhớ sao rơm rạ quê nhà
Bếp lửa ấm và bàn tay mẹ
Phương trời biền biệt xa.
Cơn sốt đầu tiên quật em trong chiều vác lồ-ô về dựng lán
Mồ hôi đầm đìa trán
Mà rét từ trong xương
Núi Chư Ty, Phượng Hoàng
Bỗng dưng nhìn nhợt nhạt
Bỏ cơm chiều, leo lên võng bạt
Đắp chăn, rung cả cây rừng
Đặt xuống đâu nhờ bạn bè ủ ấm
Lán chưa lợp đất chỗ nào cũng sũng?
Đống cỏ gianh mới cắt còn tươi
Em nằm run, mặt bừng bừng đỏ
Phải chăng hồng cầu ra đi từ đó
Để lại da vàng, môi thâm
Mũi tiêm quy- nin chưa lui cơn sốt
Đã áp- xe đỏ bầm
Em chống gậy bước đi, cười mếu máo
Dò dẫm bước về tay bê bát cháo
Bạn bè ngồi mái lán lợp nhìn theo
Mùi cháo thơm thức dậy bao cơn đói.
Mấy tuần liền
Bột mì ngào nước suối
Luộc lên, đấy là cơm
Gạo ít ỏi dành người sốt rét, bị thương.
Rừng ở đây sao hiếm rau rừng
Quanh quẩn chỉ đọt sắn
Mít xanh
Mào gà dại
Đắng mồm, không tìm nổi quả chua
Cơn sốt mấy lần quay trở lại
Đâu rồi mượt mà mái đầu con gái?
Chiều gội, tóc dính đầy lược chải
Bần thần gỡ rối lòng tay
Biết chẳng thể nào giữ lại
Thôi đành để suối mang đi.
Anh vẫn còn ở lại với em đây
Nắng ngày hạ ngời xanh màu quân phục
Anh mượn bóng mình che em phút chốc
Như từng muốn che phần áo rách
Phơi bày lỗ chỗ thịt da em.
Những năm trời ta chật vật quân trang
Tiêu chuẩn cấp một năm hai bộ
Làm sao đủ với người đào gốc, chặt gỗ
Cày cấy, gieo trồng?
áo quần anh cũng vá chịt vá chằng
Thiếu kim chỉ, nhựa cao su mà dán
Rách rưới con trai là một chuyện
Đào hố, chặt cây có thể cởi trần
Nhìn các em vá víu thật đau lòng
Cổ áo lộn ngoài vào trong
ống quần quay sau ra trước
Được vài bữa, lại rách xơ, rách tướp
Còn chiều nào mà quay, lộn nữa đâu!
Khéo tay kim chỉ cũng thừa
Không tìm đâu ra vải làm mụn vá
Chiếc mùi-soa cuối cùng đã cắt chia nhau.
Mùa mưa ấy Tây Nguyên sao mà lạnh
Phên lán thưa ào ạt gió rừng
Ngày không sợ, chỉ lo đêm ngủ
Quay phía nào cũng buốt sống lưng
Một chiều tin vui cả khu rừng náo nức
Xe quân nhu vừa chở về áo rét
Lính con trai được phát áo "bà bô"
Lính con gái lĩnh gì mà ríu rít?
Rừng ChưPrông một chiều nở ngàn bông chuối đỏ
Tối nhen ngàn bếp lửa
Đêm ủ hồng ngàn giấc mơ
áo mút đỏ mỗi em một chiếc
Cả cỏ cây cũng thắm sắc cờ.
Lạ kỳ sao áo mút
ấm như lửa, mềm như da thịt
Mặc vào tưởng được ai ôm
Mặc vào thon eo, nở ngực
Mặc vào muốn được soi gương
Mặc vào như thành người khác.
Chiếc áo cấp chống rét
Mà sao đỏ đẹp đến ngỡ ngàng!
Chỉ mặc thử cho bạn bè ngắm vuốt
Rồi vội cởi ra xếp lại gọn gàng
áo đẹp thế nỡ nào mặc ngủ
Chỉ ấp iu đã ấm cả đại ngàn
ấm giấc mơ một ngày nghỉ phép
áo đỏ ơi, cùng em dạo đường làng.
Mang khát vọng biến Tây Nguyên thành khu cây công nghiệp
Nhưng cần cái ăn nuôi mình trước
Phải trồng thêm khoai, đỗ, bí, bầu
Lạc vàng hoa, ngô phun râu
Củ sắn đội đất đai nứt nẻ
Bữa ăn đã bớt dần kham khổ
Môi bớt thâm, dáng đã bớt gầy
Nếu có được quần đen và nón trắng
Có nét làng quê kiểng n?i đây.
Nhưng quê nhà tít tắp
Máu đổ lại sát gần
Những tưởng chiến tranh hết rồi từ hôm đắp đê Ba Thá
Đơn vị em nghe tin giải phóng Sài Gòn
Tung xẻng cuốc, ôm nhau khóc cười hể hả
- Hoà bình rồi, hoà bình rồi!
Chưa đầy tháng tuổi quân đã muốn về với mẹ
- Hoà bình rồi, cần lính nữ làm chi?
- Đơn vị vào Tây Nguyên làm kinh tế!
- Lính mà, có lệnh là đi!.
Dạo ấy lính mình thương vong sao lắm thế
Vun gốc bí, lựu đạn nổ
Đào sắn, mìn nổ
Đi chặt lồ ô, bị phục kích
Lính nữ chưa quen máu
Hè nhau khênh bạn, gọi thất thanh
Chất nổ ấy, găm lại từ chiến tranh
Và khởi đầu cuộc chiến tranh biên giới
Đạn pháo cầu vồng qua suối Ca Ma
Lính Pôn Pốt luồn rừng cài mìn, bắn tỉa
Rồi thế trận dàn ra hai phía
Những điểm cao trở thành chốt lửa
Giành giật, tiến lui
Đất bazan thêm màu máu đỏ.
Dạo ấy lính mình thương vong nhiều quá
Đơn vị dành riêng một đại đội đóng quan tài
Xưởng cưa là tên gọi
Rừng Mooc- đen rền nhịp xẻ bi ai
Gỗ hồng sắc, mạch cưa như máu đổ
Mỗi lần em nhóm bếp run tay
E ngại khi cho mụn cưa vào lửa
Lưỡi cưa nấc trong từng mạch gỗ
Em nghe như lời vĩnh biệt vọng về:
- Mẹ ơi, ơi mẹ!
- Mẹ ơi, ơi mẹ!
Mẹ xa lắm, mịt mù phương bắc
Tiếng gọi này chỉ núi rừng nghe.
Hoa ơi!
Anh vẫn còn ở lại với em đây
Nghĩa trang Đức Cơ chang chang bia nắng
Đất Chưprông hai năm, hai tháng, bảy ngày em sống
Qua đói rách
Qua sốt rét
Qua đạn thẳng Phun-rô
Qua pháo vồng Pôn Pốt
Mà không qua được
Một ngày tháng Tám em ơi!
Em dậy sớm nấu cơm cho đại đội
Việc quen làm đã tám tháng nay
Lính xưởng cưa còn giấc say
Đêm qua xẻ tận khuya
Những mạch gỗ mùi còn khét lán
Mụn cưa vun cao như những nấm mồ
Rừng mịt mù mùa mưa
Từ bếp ra, em lần từng bước
Chiếc đèn khô bấc
Lửa đã châm rồi như muốn tắt
Em lên kho, quờ quạng tìm dầu
Nghiêng can rót
Và trời ơi
Lửa, lửa!
Can rời tay, dầu pha xăng tung toé
Lửa bùng to, liếm vệt dầu loang
Em thành bó đuốc cà- boong
Chạy kêu thất thanh rồi đổ xuống sàn
Đồng đội bốn bề lao vào dập lửa
Cứu được kho mà không cứu được em.
Nằm trong mền chăn ngún khói
Em thì thào hai tiếng Mẹ ơi
Mẹ xa quá, làm sao mà đến được
Em đòi gặp cô Nguyên
Tận Xê Chín, cô Nguyên không đến kịp
Em đòi hoa bằng lăng
Đồng đội khóc
Nhớ lại lần em trốn giấc nghỉ trưa vượt qua khu rừng khộp
Để hái cành hoa tím em yêu
Nhưng xa quá, chẳng thể nào đến được
Em chạy về nhanh cho kịp buổi làm chiều.
Hoa bằng lăng, lời trối trăn em nhắc
Đồng đội nhìn nhau, khóc
Rồi khóc cúi nhìn em
Tháng tám rồi, mùa hoa không còn nữa
Chỉ có đây, một chùm quả nhỏ
Em cầm mân mê, mân mê ...rồi tắt thở.
Chỉ còn một tháng thôi
Em được ra quân về với mẹ
Thế mà không thể
Hoa ơi!
Đồng đội mặc cho em áo mút
Chiếc áo mới nguyên, em cất đáy ba lô
Hơn một năm qua
Em để dành, như chưa hề mặc
Bè bạn thương em nghẹn từng tiếng nấc
Xưởng cưa xuất thêm một chiếc quan tài
Tiễn em về với đất
Chân núi Phượng Hoàng mỗi ngày một chật
Ba ngàn liệt sĩ quanh em.
Ngày chuyển em về nghĩa trang liệt sĩ Đức Cơ
Nhiều thứ tan đi mà vẹn nguyên áo mút
Là đốm lửa ký ức
Sưởi em qua quạnh vắng núi rừng
Là tín hiệu báo cho anh biết
Chính là em, chẳng thể nào nhầm.
Tròn ba mươi năm em về với đất
Tây Nguyên từng mùa đổi khác
Những đơn vị nhỏ nhoi khai hoang thời ấy
Đã lớn lên, hợp thành một Binh đoàn
Đói rách ấy đã lùi về quá khứ
Thiếu thốn ấy chỉ còn trong chuyện kể
Quanh chỗ em nằm, Đức Cơ hoá phố
Đường Mười Chín phẳng căng mặt nhựa
Cao su đơn vị anh trồng xanh tận suối Ca Ma
Làng Nú, làng Tung xác xơ ngày ấy
Ấm no tươi khuôn mặt từng nhà
Gặp lại, bà con rơi nước mắt
Ơn những người ngày đầu về mở đất
Có tên em trong chuyện kể buôn làng...
Ơi Hồng, ơi Hoa...
Cành hoa ấy hôm nay anh không tìm thấy được
Đã qua rồi mùa tím bằng lăng.
(Vương Trọng- 5/2007).
Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013
ĐƯỜNG VỀ TRẬN ĐỊA NĂM XƯA
Sắp đến kỷ niệm 66 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ, LÃO NÔNG PHU xin đăng hoạt cảnh thơ ĐƯỜNG VỀ TRẬN ĐỊA NĂM XƯA. Tác phẩm này đã đoạt giải 3 (duy nhất về hoạt cảnh thơ) thể loại kịch bản sân khấu trong cuộc thi sáng tác thơ, ca khúc, kịch bản sân khấu với chủ đề "Bản hùng ca Người chiến sĩ quân khí anh hùng" nhân kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống ngành Quân khí (16/9/1951 - 16/9/2011) do Cục Quân khí - Tổng cục Kỹ thuật QĐNDVN tổ chức năm 2011.
ĐƯỜNG VỀ TRẬN ĐỊA NĂM XƯA
HOẠT CẢNH THƠ
Tác phẩm đoạt giải ba của Cục Quân khí
QĐND Việt Nam, thể loại kịch bản sân khấu trong cuộc vận động sáng tác nhân kỷ
niệm 60 năm ngày truyền thống của Ngành Quân khí Việt Nam (16/9/1951 –
16/9/2011). Đây là một trong 3 giải ba, hai giải khuyến khích của LLVT tỉnh
Quảng Ninh và được Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Quảng Ninh tặng giấy khen.
NHÂN VẬT : Ông Bảng:
60 tuổi, Cựu chiến binh
Ông Bôn: 61 tuổi, Thương binh - Cựu
chiến binh
Bà Nhạn: 56 tuổi, Nông dân, mẹ Vân
Duy: 25 tuổi, Thượng uý Quân khí,
con trai ông Bôn
Vân: 21 tuối, Giáo viên Mẫu giáo, con
gái bà Nhạn - người yêu Duy
Chuyện kịch xảy ra vào
khoảng gữa buổi sáng một ngày mùa hè đẹp trời tại một làng quê ở Bắc Ninh . Một
nét nhạc ca khúc
“ Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa”.
MÀN
MỞ
Ông Bảng trong trang phục
bộ đội xuân hè kiểu cũ , mũ cối sờn mép,
một bên vai khoác chiếc ba lô bạc màu
Ông Bảng:
- Đây đã đến ngã ba lối rẽ
Ngôi đình
thôn Đình vũ vẫn còn đây
Dòng sông
Vân vẫn xanh ngát bóng cây
Trận địa
cũ, giờ mái trường tươi ngói đỏ
Ôi. cảnh cũ
ngày xưa còn đó!
Ngưòi xưa
ơi, còn nhớ đến ta không?
Thấp thoáng
bóng người hái bắp bên sông
Liệu có còn
ai nhận ra người lính cũ?
Thôi,
chi bằng ta cứ qua lối rẽ
Vào nơi xưa
trận địa pháo xem sao? (Lặng nhìn một lát)
Có phải đây là
dấu tích chiến hào
Hầm chỉ huy
của Trung đội trưởng?
Còn kia là
hầm “Binh công xưởng”
Nơi anh Bôn
quân khí trực ngày đêm?
Vân xuất hiện. Cô mặc áo cổ cánh sen nền
trắng, chấm hoa nhỏ nền nã, trên tay cầm
mấy thứ đồ chơi Mẫu giáo. Cô đứng phía xa xa, vẻ phân vân
Vân: ( Chững lại vài
giây, nói nhỏ một mình)
- Hẳn trường ta
có khách lạ đến thăm
( Với ông Bảng ) Dạ, cháu xin chào bác
Ông Bảng: ( Đang nhìn phía
khác, quay lại thoáng ngỡ ngàng )
-
Vâng, chào cô,
chắc cô là cô giáo
Tôi từ xa ghé
lại nơi đây
(Đến gần Vân)
- Chẳng giấu
gì cô, tôi mới tới sáng nay
Là để
thăm người quen, tìm cảnh cũ
Vân:(Mau mắn) - Dạ
xin thưa, bác tìm thăm ai thế ạ?
Và tìm chi nơi trận địa xưa
Cháu
giúp gì được cho bác bây giờ?
Cháu là
Vân, nhà cạnh đình Đình vũ
Ông Bảng: (Bước lại gần Vân, thay đổi cách xưng hô,giọng
gần như reo lên)
- Ôi, thật may, bác có người quen cũ
Đã quen
thời quân ngũ ở nơi đây
Ba sáu
năm, từ ngày ấy đến nay
Biền
biệt, chưa một lần gặp lại
Vân: ( Vẻ mặt nửa bí mật, nửa hóm hỉnh)
- Cháu đoán thử thế này có phải
Chắc chủ
nhà nơi bác đóng quân?
Ông Bảng:
(cười to) - Cháu rất thông minh, bác ở
nhà dân
Cụ là một
thầy giáo làng bình dị
Vân:(Nhẹ
giọng) - Dạ thưa bác, cụ tên gì thế ạ?
Cháu hậu
sinh chẩng thể biết được đâu
Ông Bảng: - Hai cụ sinh ra chỉ có một gái đầu
Cụ ông
hình như là Lê Hữu Mậu
Vân: (Nói
một mình) - ( Chẳng có lẽ đó
là ông ngoại
Nhưng tên
ông Trần Duy Mại sao cơ?
Mình mới
sinh, ông mất tự bao giờ
Điều này
chắc mẹ mình mới biết ! )
(
Quay sang ông Bảng ) Đã đến giờ, cháu xin lên lớp
Bác theo
ngõ này thẳng đến ngã ba
Và hỏi
thăm đến các cụ già
Thế nào
cũng tìm được người muốn gặp
Bà
Nhạn ra. Bà mặc áo màu cánh sen, tay cầm
nón, giọng đon đả, nhẹ nhàng
Bà Nhạn : (Với con) - Kìa Vân, mẹ đi tìm con khắp
Anh Duy
mới về nghỉ phép đó, con
Nó đi sau,
cùng với bác Bôn
Chắc lát
nữa tới đây cùng bác ấy
Ông Bảng quan sát bà Nhạn
hồi lâu, nhíu mày giây lát, gật gật đầu như mới chợt nhớ ra
Ông Bảng: -Kìa có phải là bà không đấy !
Bà
Nhạn ơi, còn nhận được ai không?
(Bà Nhạn chững lại nhìn ông khách lạ, ngỡ ngàng giây lát rồi
chợt buông giọng thốt)
Bà
Nhạn:
- Quên làm sao chốt cao xạ
bên sông
Bác Bảng.
Trời, phải bác không, bác Bảng?
Ông
Bảng:( Cười lớn) Vâng, đúng tôi, mấy chục mùa mưa nắng
Người
lính bên sông mới lại trở về đây
Làng thôn
xưa nay đã đổi thay
Nhưng tấm
lòng thì vẫn không thay đổi
Vân: (Hết nhìn
mẹ lại nhìn ông Bảng)
- Có lẽ
chính đây là người bộ đội
Mẹ vẫn
thường hay kể con nghe
Chính là
ngưòi chẳng quản hiểm nguy
Cứu ngoại con thoát ra tầm lửa đạn Ông Bảng:(
Cười ngượng nghịu,vẻ lảng chuyện)
Nói thế này không sợ là quá đáng
Chính mẹ
con cứu bác khỏi hy sinh
Vì thương
binh, mẹ cháu đã quên mình
Cứu bác
và bác Bôn thoát chết
Bà Nhạn:(Nhìn ông Bảng,
lắc đầu, nửa có vẻ trách dỗi, nửa xí xoá)
- Gớm, bao nhiêu câu, bác giành phần nói hết
Tình quân
dân, vì nghĩa lớn chẳng nề chi
(Vẫy
tay ra hiệu cho con) Thôi, Vân ơi, con hãy rảo bước đi
Đón anh
Duy và bác Bôn tới nhé
Vân
đi
Bà Nhạn : - Anh bộ
đội Duy sắp trở thành con rể
Bác biết Duy là con của ai không?
(Nhìn
ông Bảng, nhưng lại tự trả lời luôn)
Chính là trai của trung sĩ Đỗ Viết Bôn
Lính
Quân khí của Tiểu đoàn cao xạ pháo
Người
lính ấy lại cùng nhóm máu
Cứu cha
tôi sống lại năm nào
Ông Bảng :(Trầm lại) - Tôi
phục viên vào tháng bẩy năm sau
Chẳng
nắm được thông tin đơn vị cũ
Đồng đội
rồi mỗi nơi một đứa
Được gặp
anh Bôn là quý lắm rồi
Ông Bôn, Duy, Vân ra. Ông Bôn mặc quân phục
kiểu cũ bằng vải ga-ba-đin ngắn tay, ngực đeo huy hiệu Thương binh, tay trái
cụt đến bả vai. Duy chững chạc trong bộ quân phục. Ông Bôn đến gần, bàn tay
lành đặt lên vai ông Bảng, giọng đầy xúc động
Ông Bôn: - Xin đón mừng người đồng đội của tôi
Ngót bốn
chục năm, bây giờ gặp lại
( Lùi
ra xa, ngắm nghía) - Ôi, vẫn như
xưa, tôi còn nhớ mãi
Anh hát chèo hay nhất Đại đội ta
(Nhỏ
giọng, xót xa) Trung đội
mình có hai cậu đã đi xa
Đứa
Liệt sĩ, đứa ốm đau thì mất!
(Tha thiết) Nhưng tấm lòng thì
thuỷ chung như nhất
Đồng
đội ơi, xin hãy nhớ về nhau
Duy:(Đầy vẻ tự hào) - Bác, cha
trước, con lại tiếp sau
Hai
thế hệ cùng chung câu đồng chí
Cha thắng Mỹ với tinh thần Quân khí,
sáu
mươi năm anh dũng, kiên cường
Vân:(Đến bên mẹ, băn
khoăn, ngập ngừng, nhìn cả hai người khách như dò hỏi)
- Có môt
điều con muốn được tỏ tường
Thưa
mẹ và thưa hai bác
Chỉ
mới thôi, con vừa được biết
Ông
ngoại con sao lại hai tên?
Bà Nhạn: (Cầm tay con trìu mến, rồi
nhìn hai người khách)
- A,
điều này mẹ chưa nói với con
Lê Hữu
Mậu là bí danh hồi kháng chiến
Hai
bác đây chỉ biết có một tên
Mẹ là
Trần Thị Nhạn đó con
Chính
họ gốc nhà ta bên đằng ngoại
Duy: (Nhanh nhẹn đến gần bà Nhạn tiếp lời)
- Và
thưa bác, điều này có phải?
Giữa
làn bom bác đã cứu cha con
Bác
xông pha vào lúc địch dội bom
Quyết
không để thương vong lần nữa
Ông Bảng: ( Bồi hồi cảm
động, giọng xa xăm, nghẹn ngào)
- Bà ấy
như thoi, lao vào dập lửa
Bác mê
man, bà ấy xốc lên vai
Rồi
cõng bác thẳng về nơi trạm xá
Dứt
cơn mê, bác hỏi cô y tá
Mới
biêt rằng bà ấy cũng bị thương
Bà Nhạn:
(Nhìn ông Bảng xua tay, lắc đầu nhè nhẹ)
- Vết
thương tôi cũng chỉ bình thường
Ông
mất máu tưởng chừng không qua nổi
Thế mà
lúc mới vừa tạm khỏi
Đã
hỏi ngay: “ Cô Nhạn có sao không? “
Ông Bôn: (Tiếp mạch hồi
ức):
- Vẫn còn đau, bà ấy chống gậy sang
Nhường
tôi hết nào cam, nào chuối
Lúc
cân đường, khi chỉ là múi bưởi
Tận
tình như chăm sóc người anh
Ngày quê ta đã hết chiến tranh
Vết
thương nặng, tôi vào khu điều dưỡng
Gia đình riêng, nhưng vài tuần lại xuống
Bà chăm tôi như thể người thân
Ông Bảng: (Đến gần ông Bôn và bà Nhạn, ba người hướng về Vân và
Duy. Vân thẹn thùng nép vào sau vai Duy)
- Và hôm nay hạnh phúc đã ươm mầm
Hai con
sắp trở thành đôi, thành lứa
Tình
quân dân sắt son qua đạn lửa
Lại
nở hoa kết quả thắm đồng quê
Bà Nhạn: (Tiến về phía
trước một bước, như nói với khán giả)
Quân với dân vẫn trọn vẹn câu thề
Gian khổ, đau thương
vẫn thắm tình cá nước
Vẫn thuỷ chung, nghĩa nồng nàn sau trước
Nào, ta hát câu Quan họ giữa quê hương
Tât
cả: (Mọi người hát theo làn điệu
Tương phùng, tương ngộ - Dân ca Quan họ Bắc ninh)
Khi xuân về (là) trên
quê hương tươi đẹp (i)
Trăng (i) sáng tỏ, (i),
ta ngỏ câu ân tình
Trên (i) quê (ì) mình, cảnh đẹp như ước mơ
Vui (í) đêm hôm rằm,
tình đẹp như ý thơ
Bên (i) dòng sông ( í
a a là) dòng sông
Trận địa (í à) ngày xưa (i) nay đã nên đồng xanh
Nay đã nên trường xinh (ì ì
a)
Ngày vui (i), đêm hội (i)
vui hội (a) ta vào mùa
Ước (í) mơ bảo đời , ngàn lời ( à) ta hát lên
Sắt (í) son lời thề , tình thêm đẹp (là)
quân với dân.
(Về kết) Gái (í) trai
quê mình(ì), tình thêm đẹp (là) đôi lứa đôi
HẠ MÀN
NGUYỄN ĐÌNH THÁI

Đăng ký:
Bài đăng (Atom)